Chép
lại bài anh Tam Ngng đăng trên trang facebook Đồng Môn NguyễnHoàng.
Mời
mọi người đọc một bài thơ của cụ Nguyễn Khuyến viết về dòng sông Thạch Hãn, Quảng
Trị.
Sông Thạch Hãn (Ảnh trên internet)
THẠCH
HÃN GIANG
石澣江
石澣江流一棹橫,
夕霞晻曖遠山明。
西風何處吹塵起,
不以年前徹底清。
阮勸
Âm Hán Việt:
THẠCH
HÃN GIANG
Thạch
Hãn giang lưu nhất trạo hoành,
Tịch
hà yểm ái viễn sơn minh.
Tây
phong hà xứ xuy trần khởi,
Bất
dĩ niên tiền triệt để thanh.
Nguyễn Khuyến.
NGHĨA:
SÔNG
THẠCH HÃN
Trên
dòng Thạch Hãn một chiếc đò đang sang ngang,
Ráng
chiều lấp lóa làm sáng dãy núi xa.
Gió
tây từ đâu thổi tới làm bụi bay lên,
Không
còn nữa [dòng nước] trong tới đáy như lúc trước nữa.
Nguyễn Khuyến đỗ tam nguyên năm 1871, lúc 36 tuổi, khi
Pháp đã chiếm xong 6 tỉnh miền tây, chuẩn bị thôn tính Bắc Hà. Năm 1882 Hà
thành thất thủ, năm 1883 Nam Định tiếp tục rơi vào tay Pháp. Năm 1884, Nguyễn
Khuyến cáo lão từ quan về sống ẩn dật nơi quê nhà. Bấy giờ ông mới 49 tuổi.
Bài thơ hẳn được viết lúc ông còn làm quan, nhân một lần
trên đường từ kinh về quê qua đò ngang trên sông Thạch Hãn. Bài thơ nặng trĩu
tâm sự của ông đối với thời cuộc.
TẠM DỊCH:
Một
chuyến đò ngang Thạch Hãn giang,
Non
xa lấp lóa ráng chiều vàng.
Bỗng
đâu ngọn gió tây mù bụi,
Hết
một dòng sông tận đáy trong.
Ghi chú:
- 石澣:
tên con sông ở Quảng Trị. Trong nhiều tài liệu chữ Hán xưa, tên sông thường được
ghi là 石捍Thạch Hãn. Dân gian thì
thường hiểu thạch hãn = mồ hôi đá, tức “hãn” là chữ hãn này 汗. Chữ 澣 trong nhan đề đúng ra đọc
là cán/hoán/hoãn (胡玩切).
Bản chữ Hán chép lại từ trang thivien.net, ở đó có ghi chú:
Nguồn: Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến, Trần Văn
Nhĩ, NXB Văn nghệ, 2005
- 一棹
nhất trạo: một mái chèo, một chuyến đò. Trạo 棹
(như trạo 櫂) = mái chèo, cũng mượn
chỉ chuyến đò. 棹
còn đọc là "trác" = cái bàn nhỏ (như chữ trác 桌).
- 晻曖
yểm ải: nhiều, mù mịt; lúc bị che lúc lộ ra.
- 西風
tây phong: gió tây, tức gió tây nam, gió Lào.
- 年前
niên tiền: năm trước, thời gian trước.
- 徹底
triệt để: [nước trong] đến tận đáy.