BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2023

PHẠM CÔNG THIỆN PHÊ NGUYỄN VĂN TRUNG – Theo Nhị Linh

Trước năm 1975, giới văn học nghệ thuật xôn xao về vụ “thiên tài nổi loạn” Phạm Công Thiện xuất bản cuốn “Hố thẳm tư tưởng”, dành một chương phê phán luận án tiến sĩ của giáo sư Nguyễn Văn Trung với một thái độ khinh bỉ, trịch thượng, mạt sát thậm tệ. Cuốn sách bán chạy, dư luận bàn tán sôi nổi. Sau đó, một nhóm phật tử Huế trích chương này thành cuốn sách nhỏ in vào mùa hè năm 1973. Xin mời đọc bài viết của Nhị Linh



        PHẠM CÔNG THIỆN PHÊ NGUYỄN VĂN TRUNG 
                                                                            Theo Nhị Linh
                
           
                          
Nhân nói chuyện này xọ chuyện kia, đề cập Phạm Công Thiện ngày sanh của rắn, tôi muốn lôi trở lại một văn bản ngày nay gần như tuyệt mệnh giang hồ, đúng số phận như tập thơ của Phạm Công Thiện, Ngày sanh của rắn bản in đầu (in số lượng hạn chế bên Pháp) gần như chưa ai nhìn thấy bao giờ.
 
Văn bản này (đúng ra là một bài viết cỡ 30 trang) mang tên Phê bình luận án tiến sĩ triết học của Nguyễn Văn Trung, không rõ viết và phát hành lần đầu năm nào nhưng được một nhóm phật tử Huế tái bản thành cuốn sách nhỏ in mùa hè năm 1973, ở "Lý do" đặt đầu sách có viết là không liên lạc được với tác giả nên cứ in ra như vậy.
 
[Phạm Công Thiện ngoài “ngày sanh của rắn” còn liên quan chặt chẽ tới các từ khóa sau: Vạn Hạnh, Phạm Hoàng, Phật giáo, Henry Miller, Heidegger, Nietzsche, Hố Thẳm, Bùng Vỡ, và cả... Nhất Hạnh, nhưng với Nhất Hạnh thì là dấu trừ nhé, “Nói với tuổi hai mươi”]
 
Bài viết của Phạm Công Thiện là một bản luận tội. Trớ trêu là Nguyễn Văn Trung cũng từng có một bản luận tội đanh thép đối với Phạm Quỳnh và tạp chí Nam Phong [có trích dẫn Nguyễn Văn Hoàn ở miền Bắc nhé, nhắc lại để các bác nhớ], sự việc Phạm Quỳnh đó nếu không nhầm thì cũng diễn ra ở Huế (Nguyễn Văn Trung tham gia một buổi hạch tội Phạm Quỳnh của sinh viên, sau này mới viết hai quyển Chủ đích Nam PhongTrường hợp Phạm Quỳnh khi thời điểm tháng Tư 1975 đã cận kề).
 
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Trung bảo vệ tại Institut Supérieur de Philosophie, Đại học Louvain (trí thức Sài Gòn, nhất là ngành triết, và liên quan tới Công giáo, rất nhiều người xuất thân Louvain) tên là La Conception Bouddhique du Devenir, Nam Sơn sau này sẽ in năm 1962.
 
Phạm Công Thiện chỉ trích thậm tệ bảng sách tham khảo của luận án, rồi bắn ngay: "Nguyễn văn Trung là một người học vấn nông cạn lôi thôi, và bởi nông cạn lôi thôi cho nên trở thành nguy hiểm".
 
Đặc biệt Phạm Công Thiện chê Nguyễn Văn Trung kém cỏi triết học Tây phương và mù tịt Phật giáo.
 
Hồi đó hẳn Phạm Công Thiện đã đọc Borges rồi, vì ngay đoạn mở đầu đã dùng đúng ý của Borges về tautology, mà Phạm Công Thiện gọi là "trùng phức". Một đoạn sau thì Phạm Công Thiện nhắc tới mouvement circulaire, dịch là "sự vận hành vòng tròn": hẳn Phạm Công Thiện cũng đã đọc các nhân vật chủ chốt của trường phái Genève, mà nhiều khả năng đã đọc cả Poulet và Starobinski.
 
Đoạn đầu Phạm Công Thiện đã nã đại bác: "Phủ nhận bài bác tư tưởng của Nguyễn văn Trung không phải là mục tiêu bài này, vì một lý do dễ hiểu là Nguyễn văn Trung không có tư tưởng mà chỉ có học vấn, sự học vấn của Nguyễn văn Trung có tính cách phá sản vì bị rơi vào sự nông cạn hớn hở của một niềm tin vào thế lực chồng chất của phạm vi nhận thức, tức là quái thai của sự trùng phức".
 
Bài viết/quyển sách đưa ra nhiều luận điểm lắm, cũng nhiều câu hay có thể xít tê lắm nhưng tôi đặc biệt quan tâm đến đoạn "Kết luận". Vài đoạn trong đó:
 
"Chưa bao giờ ngôn ngữ con người bị đổ vỡ như hiện nay. Tất cả những quyển sách của Nguyễn văn Trung viết đều được hướng dẫn bởi một ý định: rao truyền một ý thức hệ."
 
"Từ lâu tôi không muốn nhắc đến tác phẩm của Nguyễn văn Trung; tôi muốn quên tên anh như quên một thói xấu trong chính đời mình. Đối với tôi, Nguyễn văn Trung không phải chỉ là tên anh, mà là tượng trưng cho sự nông cạn, nô lệ, phá sản của giới trí thức Việt Nam hiện nay. Tên ấy gợi lên sự học vấn lừng khừng, suy tư thiếu máu, cóp nhặt thiếu thông minh, kiêu ngạo ngu xuẩn, lưu manh nguy hiểm.
 
Tôi đã tàn bạo khi viết những dòng trên.
Phải tàn bạo."
 
Phê bình luận án Nguyễn văn Trung tức là phê bình cả sự nghiệp trí thức của Nguyễn văn Trung, mà phê bình Nguyễn văn Trung thì cũng có nghĩa phê bình luôn Trần Thái Đỉnh, Trần Hương Tử, Nguyễn Nam Châu, Hoàng Thái Linh và một số trí thức khác ở Việt Nam.
 
Và phê bình họ cũng có nghĩa là phê bình luôn những ông thầy của họ là La Vallée Poussin, Dondeyne, Verneaux, A. Creson, R. Jolivet, P. Oltramare, Jean Wahl, Henri de Lubac, Charles Moeller, vân vân.
Khi tôi nói về họ tôi không phải đứng trên một ý thức hệ để đối lại với một ý thức hệ.
Tôi phá hủy tất cả mọi ý thức hệ.
Máu lửa đang bùng nổ ở Việt Nam; hàng ngàn anh em chúng ta đang gục chết mỗi ngày; những con chim non bay tán loạn đầy trời; các anh đã làm gì với những ý thức hệ của các anh? Trên ‘Ngõ Về của Im lặng’ (aus dem Pfad des Schweigens), chúng ta đã nói nhau những gì?”
                                                                            Phạm Công Thiện
 
[Trần Hương Tử là bút danh của Trần Thái Đỉnh, còn Hoàng Thái Linh là bút danh Nguyễn Văn Trung thời kỳ đầu, khi hay viết cho tạp chí Sáng Tạo và tạp chí Thế kỷ XX]
 
                                                                                   Theo Nhị Linh

Nguồn:
http://nhilinhblog.blogspot.com/2010/06/pham-cong-thien-phe-nguyen-van-trung.html


PHỤ LỤC:

Những điều Phạm Công Thiện đã phê bình Gs Nguyễn Văn Trung:
 
Trang 9-10:
Đọc xong tập luận án, dù vô tình đến thế nào, cũng thấy ngay rằng Nguyễn Văn Trung là một người học vấn nông cạn lôi thôi, và bởi nông cạn lôi thôi nên trở thành nguy hiểm. Giọng điệu Nguyễn Văn Trung mơ hồ bất nhất, tất cả lý luận đều nông cạn và cóp nhặt kẻ khác, kiến thức triết học Tây phương hãy còn kém cỏi (đó là chưa nói kiến thức quá sơ đẳng của Nguyễn Văn Trung về Phật học).
 
Nguy hiểm và ngu xuẩn hơn nữa, tất cả lý luận và giọng điệu của Nguyễn Văn Trung được điều khiển bởi một thủ đoạn không đứng đắn; tại sao Nguyễn Văn Trung không có can đảm đả phá chỉ trích Phật Giáo bằng một ngôn ngữ trực tiếp ngay thẳng? Tại sao phải nói quanh quẩn rào trước đón sau, khen một đôi giòng trịch thượng để rồi kết luận bằng những ý tưởng đả phá quá non dại.?
 
Lập trường của Nguyễn Văn Trung (tạm gọi) là lập trường Thiên Chúa Giáo theo điệu thần học của Thánh Thomas d’Aquin. Thực ra thì Nguyễn Văn Trung cũng chưa nắm được Tinh thể của tư tưởng Thánh Thomas d’Aquin; Nguyễn Văn Trung chỉ lấy ra vài ba ý tưởng ấy để đả kích Phật Giáo. Về Phật học, Nguyễn Văn Trung hoàn toàn không hiểu gì cả. Mà ngay đến triết học Tây phương, anh cũng không nắm vững..
 
… Nếu anh hiểu nổi Aristote và St. Thomas d’Aquin thì anh sẽ không bao giờ viết một tập luận án buồn cười, kỳ quặc, nông nổi, lôi thôi như vậy.
 
Trang 28:
Nguyễn Văn Trung hoàn toàn dốt nát về Phật học, Nguyễn Văn Trung cũng lại hoàn toàn dốt nát về Tư Tưởng Tây Phương. Sự dốt nát ấy trở nên trầm trọng vì nó đưa người ta đồng lõa với một thế lực; với những thế lực đang tàn phá Việt Nam hiện nay.
 
Trang 34-35:
Nguyễn Văn Trung luôn luôn nói đến “cảm thông”, “trao đổi”, “đối thoại”, “tha nhân”, “tôi anh” v..v… Nhưng sự thực như thế nào?
 
Tất cả những quyển sách của Nguyễn Văn Trung viết đều được hướng dẫn bởi một ý định: rao truyền một ý thức hệ (Công Giáo)
 
Khi một người rao truyền một ý thức hệ, khi người ấy nói “đối thoại”, “thông cảm”, “tha nhân” v..v.. thì phải hiểu rằng đối thoại để rao truyền, thông cảm để rao truyền và tha nhân là người được rao truyền.
 
…Từ lâu tôi không muốn nhắc đến tác phẩm của Nguyễn Văn Trung; tôi muốn quên tên anh như quên một thói xấu trong chính đời mình. Đối với tôi, Nguyễn văn Trung không phải chỉ là tên anh, mà là tượng trưng cho sự nông cạn, nô lệ, phá sản của giới trí thức Việt Nam hiện nay. Tên ấy gợi lên sự học vấn lừng khừng, suy tư thiếu máu, cóp nhặt thiếu thông minh, kiêu ngạo ngu xuẩn, lưu manh nguy hiểm.
 
Ngoài ra Phạm Công Thiện còn vạch ra những sai lầm quá kỳ quặc của ông Trung như “lầm lẫn Nagasena với Nagarjuna, lầm lẫn Bhutathata với Bhutatathata mà bất cứ một người học Phật sơ đẳng nào cũng không thể lầm lẫn được”, cùng những sai lầm quá nông cạn (từ PCT Thiện dùng) trong luận án của ông Trung như sau:
 
1. Phật Giáo chỉ có Tiểu Thừa mới là Phật Giáo.
2. Phật Giáo Đại Thừa chỉ là Bà La Môn Giáo (tr. 131)
3. Phật Giáo không nắm được hiện tượng biến dịch (devenir) [tr. 118-119]
4. Phật Giáo không giải thích ý nghĩa đích thực của Trung Đạo (tr. 119-124)
5. Phật Giáo Nguyên Thủy đã tự đánh lừa một cách nặng nề (tr. 119-124)
6. Đức Phật đã xem NGÃ như là một thực tại siêu hình (tr. 130)
7. Phật Giáo không giải thích nổi hiện tượng luân hồi (tr. 133)
8. Phật Giáo chỉ là “cãi chữ”, đó chỉ là những “ngón, những thủ đoạn Phật Giáo (tr.133)
9. Phật Giáo Nguyên Thủy hoàn toàn duy vật (tr. 144-145)
10. Phật Giáo Nguyên Thủy là nạn nhân của chính luận lý học của họ, vì thế không giải thích nổi hiện tượng biến dịch (tr. 148)
11. Phật Giáo hoàn toàn chối bỏ trần gian hữu hình này (tr. 47)
12. Phật Giáo khác Thiên Chúa Giáo vì Thiên Chúa Giáo cứu chuộc lại trần gian này (tr. 47-48)
13. Đức Phật chỉ có tài phá hủy, chứ không thể xây dựng (tr. 65, 85)
14. Phật Giáo thiếu và nghèo ngữ vựng siêu hình (tr. 66)
15. Phật Giáo Nguyên Thủy cũng đã xa nguyên thủy (tr. 75)
16. Phật Giáo là theo duy nghiệm chủ nghĩa (tr. 86)
17. Những thầy chùa cũng chỉ là thầy chùa (tr. 91)
18. Phật Giáo luôn luôn cực đoan, không hề biết mực thước (tr.91) v..v..và v..v..

Phạm Công Thiện phê bình Gs Nguyễn Văn Trung đã viết về Phật Giáo “theo điệu luận lý học nhà trường”. (Nhà trường đây PCT cho rằng nhà trường Công Giáo ở Louvain dạy và quan niệm về Phật thế nào thì ông Trung chỉ nhắc lại như con vẹt mà không hiểu mình nói cái gì). Phạm Công Thiện còn nói rõ hơn thế nào là luận lý học nhà trường: “Luận lý học nhà trường (Louvain) không được đi trên đường suy tưởng oanh liệt qua Platon, Aristote, Kant, Descartes, Hegel, Nietzsche, Heidegger, mà chỉ là quái thai của tinh thần suy tưởng bắt đầu từ Aristote và thành hình quyết liệt nơi Thomas d’Aquin..”

*
Kỳ sau:

Mời đọc bài "ÔNG PHẠM CÔNG THIỆN" của giáo sư Nguyễn Văn Trung

1 nhận xét:

Bâng Khuâng nói...

Gs Nguyễn Văn Trung sinh ngày 26-9-1930, tại làng Thanh Hương, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; còn có bút hiệu là Phan Mai và Hoàng Thái Linh. Xuất thân trường Dòng Puginier và chủng viện Hoàng Nguyên trước khi chuyển qua học Chu Văn An, Hà Nội. Từ 1950 đến 1955 ông được gửi đi du học Âu châu, ban đầu ở Pháp rồi qua Bỉ, đậu cử nhân triết học Đại học Louvain, Bỉ. Năm 1955 về Sài Gòn dạy trường trung học Chu Văn An, và sau đó là Đại học Huế.

Năm 1961 ông trở lại Bỉ, trình luận án tiến sĩ về Phật Học cũng tại Đại học Louvain với đề tài: “La Conception Bouddhique du devenir, Essai sur la notion du devenir selon la Stharivanâda.”

Về nước ông dạy Triết và Văn ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn và Đại học Huế. Tại Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ông là Trưởng ban Triết Tây phương, có thời gian được bầu làm Khoa trưởng Đại học Văn khoa Sài Gòn (1969).

Sau 1975, không được trở lại giảng dạy, ông chỉ có thể làm công việc nghiên cứu văn học và triết học tại Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp TP. HCM, với một chuyển hướng quan trọng, ông tập trung vào nghiên cứu văn hoá miền châu thổ Sông Cửu Long với thành quả là bộ sách “Lục Châu Học”, ông cũng có công phát hiện cuốn sách quốc ngữ đầu tiên: “Thầy Lazaro Phiền” của Nguyễn Trọng Quản, do cơ sở J. Linage Saigon xuất bản năm 1887, tiến tới phủ nhận tác phẩm “Tố Tâm” xuất bản năm 1925 ở ngoài Bắc bấy lâu vẫn được xem là áng văn quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam.

Mười tám năm sau 75, từ cuối 1993 Nguyễn Văn Trung đã cùng với gia đình rời Việt Nam, sang đoàn tụ với người con trai lớn Nguyễn Quốc Bảo là boat people đang định cư tại Montréal, Canada. Và sau đó, Nguyễn Văn Trung vẫn có những chuyến về thăm Việt Nam, sang Mỹ và Pháp.