Nguồn:
http://son-trung.blogspot.com/2018/07/nguyen-thi-vinh-phuoc-ngay-ay-ngam-ngui.html
NGÀY
ẤY NGẬM NGÙI
Nguyễn Thị Vĩnh Phước
Tháng 5 năm 1976 - mùa gặt chính. Đây cũng là thời điểm
đầu tiên tôi bỏ lại sau lưng tất cả những mộng ước một thuở áo trắng học trò để
bước chân vào đời trong vai trò mới. Tôi trở thành lao động chính. Nghề nghiệp:
Trồng cây lương thực. Nơi làm việc: Hợp I - tên gọi tắt từ mấy chữ Hợp tác xã
Nông Nghiệp số I của đội sản xuất quê nhà Lam Thuỷ - nơi mà mẹ con tôi dắt díu
nhau trở về sau ngày 30/4/1975. Ngày đầu tiên tôi tham gia lao động đúng vào
mùa gặt. Đó là một ngày mùa hạ đầy nắng gió.
Những cơn gió Lào quăng quật rát bỏng vào mặt, vào những
bước chân non nớt của tôi đang cùng đoàn người tay cầm đòn xóc, tay cầm vằng
(lưỡi hái) hướng về phía ruộng trũng có tên là Bàu, Đội. Ruộng ở đây sâu nhất
làng, quanh năm ngập nước. Bao năm rồi chiến tranh, ruộng đồng bỏ hoang. Nghe
đâu thời giao tranh ác liệt đã có không ít xác người nằm lại nơi đây mà chẳng
được mai táng. Có lẽ đó là lý do để Bàu là nơi tích tụ nhiều thứ ô nhiễm nên bất
cứ ai một lần lội xuống đó đều bị ngứa, gãi trầy da tróc vảy đến tận xương mà
chưa “đã” ngứa...
Buổi sáng đầu tham gia lao động sản xuất của tôi trôi
qua trót lọt nhờ có mấy người bà con hàng xóm tốt bụng, thương đứa học trò vừa
tập lội ruộng nên đã tận tình giúp đỡ, coi như tập sự xong. Đến trưa gánh lúa về
mới là điều nan giải; coi mọi người xóc lúa, gánh lúa nhịp nhàng thế chứ không
dễ gì đâu. Xóc lúa không đúng cách khi đưa lên vai chạy một quãng là lúa sẽ rơi
khỏi đòn xóc ngay; không biết đi theo nhịp, lúa cũng sẽ bị “trơi”; mà việc xóc
lại gánh lúa đã bị trơi thì càng khó hơn… Ôi thôi! Từ một đứa học trò chỉ biết
sách vở, giờ bắt tay vào những công việc đồng áng mới thấy khổ làm sao! Tôi còn
nhớ như in lúc đi qua con mương Thiên Trung, gánh lúa trên vai quá nặng so với
vóc dáng bé nhỏ của tôi.
Nhìn xuống dưới mương nước đang chảy tôi thấy một con
đỉa trâu - loại đỉa rất lớn hay bám hút máu trâu bò - to đùng nổi lềnh bềnh
trên mặt nước làm tôi bủn rủn cả tay chân. Thế là “uỵch”, tôi té nhào xuống bờ
mương. Chưa hết, cho dù bị té đau điếng, cái đòn xóc mang nặng hai bó lúa đè
ngang cổ đến nghẹt thở, tôi cứ vẫn co cao hai chân, quyết không để chân đụng mặt
nước dưới mương vì sợ con đỉa đánh hơi bám vào. Tôi cất giọng khàn khàn kêu cứu
“Quốc … Quốc …ơi…!” Quốc là cháu họ của
tôi, một thanh niên hơn tôi chừng vài tuổi. Quốc có làn da ngăm đen, mạnh khỏe
và rất vui tính. Hắn luôn đi sát bên tôi trong những ngày đầu tập sự công việc
đồng áng, hầu kịp thời giúp đỡ cho o học trò vừa chân ướt chân ráo vào nghề.
Nghe tiếng kêu, Quốc quay lại. Thấy cảnh ấy hắn trách
liền “Đã nói rồi, để cháu đi sau o mà
không chịu. Lỡ o có bị té thì cháu đỡ cho mà không nghe. Cứ kêu cháu về trước uống
nước kẻo khát, may mà cháu đi chầm chậm chơ không thì o làm răng đây?” Dứt
bài ca cẩm, Quốc nhẹ nhàng đặt gánh lúa trên vai xuống bờ ruộng rồi bước lại chỗ
tôi. Bỗng dưng hắn ngó tôi đăm đăm rồi ôm bụng cười lăn lộn. Trời ơi! Tôi vừa sợ
chân mỏi sẽ rớt xuống nước vừa mệt vì ngạt thở, hắn chưa chịu cứu tôi mà cứ đứng
đó ôm bụng cười còn chỉ chỉ vào chân tôi nữa là sao? Tôi tức đến chảy nước mắt.
Thấy thế, hắn hoảng hốt “O… o răng rứa? Thôi
đừng khóc... đừng khóc, để cháu đỡ cho”. Nói xong hắn đỡ gánh lúa đang đè
trên cổ tôi rồi vội vàng nắm chặt tay cho tôi bước qua bờ mương đất mềm nhão
nhoẹt đầy cỏ lác. Quốc đặt gánh lúa của hắn lên vai tôi nói “O gánh gánh ni, để cháu bó lại gánh lúa tê
rồi cùng về kẻo trưa rồi”. Nghĩ lại thấy tội hắn ghê nhưng cũng tức nữa, hắn
đã cứu tôi nhưng từ đó hắn có một đề tài ưa thích để chọc ghẹo tôi. Cứ mỗi lần
cùng đoàn người ra ruộng, ngang bất cứ con mương nào, hắn lại diễn cái màn tôi
té bên bờ mương rồi cất tiếng vịt mái kêu Quốc … Quốc ơi! làm tôi mắc cỡ muốn
chết còn mọi người thì được dịp cười đau cả ruột.
Xong mùa gặt, chúng tôi lại tiếp tục làm đất ruộng,
nào cày, nào cuốc… rồi gieo hạt, nhổ mạ và cấy lúa cho vụ trái. Cuốc đất ruộng
được gọi là cuốc đất ải. Mấy ngày đầu, da tay tôi bong lên, sưng mọng nước rồi
dập ra đau thấu xương. Thế nhưng cũng phải ráng cho kịp người ta. Cứ một hàng
ngang đưa cuốc lên phặp… phặp, mình dừng lại xoa tay là bị tụt hậu liền, chuyện
công điểm bình bầu cuối ngày có thể không cần thiết nhưng sợ cuối ngày lại nghe
“phê bình” rằng ...thì là... là... là...
là… là…thanh niên 17 bẻ gãy sừng trâu mà mà… mà… mà…cuốc đất giống... giống ông
thầy phùy thủy hươ cây làm phép thì nhục lắm.
Cũng may Quốc luôn cố ý đứng gần để “vớt” cho tôi. Qua
một vụ mùa đã quen với công việc đồng áng, hai bàn tay đã đầy vết chai, tôi tự
tin hơn, không còn sợ sệt và lớ ngớ như trước nữa. Vừa làm việc, tôi cũng vừa
hò vè đối đáp với mấy o, mấy chị lớn tuổi những câu hò mái nhì dặt dìu hoặc hò
khoan hò hụi … để quên đi phần nào sự vất vả trên cánh đồng một nắng hai sương.
Một lần, đội sản xuất của tôi xuống cấy ở ruộng Bàu. Nhìn qua đám ruộng bên cạnh,
tôi thấy Hùng đang dắt trâu. Cũng như mấy anh chàng học trò vừa làm quen với ruộng
đồng, Hùng chưa biết cày nên cầm sợi dây xỏ mũi con trâu to bự chảng đi trước để
người đi sau cày hoặc bừa làm đất cho ruộng cấy, việc làm đó có tên là “dắt
trâu”.
Dắt trâu coi vậy chứ không dễ đâu, gặp con trâu chứng,
hay lồng lên không chịu đi là người dắt trâu bị thợ cày nạt nộ cho tối tăm mặt
mũi. Hùng là thằng bạn học lớp vỡ lòng với tôi ngày trước. Hồi đó chúng tôi học
vừa xong lớp Một thì trường làng bị pháo kích đổ nát, nhà tôi cũng tan tành
trong một trận đánh. Thế là tôi theo gia đình ra tỉnh học còn Hùng là con nhà
lính nên theo cha vào tận Sài Gòn, mãi đến cuối hè năm 1975 hai đứa tôi mới gặp
lại. Một ngày, anh Lam - con ông bác họ đồng thời là bạn học cùng lớp với tôi -
đã đưa Hùng đến gặp tôi. Lam nheo nheo mắt hỏi tôi “Nhớ ai đây không?”
Tôi thấy Hùng rất quen nhưng nhìn cái bảng tên trường
thì lạ hoắc nên chỉ cười không nói. Hùng nhắc “Hồi đó hai đứa mình cùng ngồi chung bàn đầu ở lớp Một trường làng Lam
Thuỷ đó”. À thì ra là hắn, đứa con trai ở xóm Sông ngồi bên cạnh tôi suốt
năm học lớp Một của ngày xưa ấy. Trong lũ học trò nhà quê hắn nổi bật nhất lớp
nhờ làn da trắng trẻo và áo quần sạch sẽ tươm tất.
Gặp lại bạn tôi vui lắm, hỏi thăm nhau về gia đình và
việc học hành mới biết ba Hùng đã tử trận nên mẹ hắn đưa con cái về quê. Để rồi
bây giờ chúng tôi cùng dứt áo thư sinh để bước vào đời nông dân. Một thoáng
nghèn nghẹn bất chợt kéo đến khiến tôi cay cay mắt. Hùng cũng thấy tôi, hắn hơi
ngẫn người ra một chút rồi cười cười vội vã bước đi trong đám bùn ộp oạp. Tôi
cũng chăm chú cùng mọi người cật lực cấy cho xong đám ruộng vì sợ chiều nước
dâng khó cấy, dù đôi chân ngâm trong ruộng nước dơ ngứa ơi là ngứa.
Buổi trưa vừa về đến nhà là tôi vội rửa sạch hai ống
chân, lau thật khô rồi xát cả cối gừng tươi trộn muối hột mạ tôi vừa giã nát chờ
sẵn. Sáng nay, biết tôi đi làm ở Bàu nên mạ tôi đã làm sẵn món thuốc tự chế ấy
trước khi con trở về. Nhờ thoa “bửu bối” của mạ vừa rát, vừa nóng nên chỉ làm
chân tôi sưng tấy lên và đau nhức nhưng cũng bớt ngứa, không phải cào lòi cả da
non như mọi người. Chiều đó, khi tập trung trên đường xóm để chuẩn bị xuống cấy
ruộng Thiên Tả, nhìn chân của những người khác mới kinh khiếp làm sao!...
Trời ạ! Đôi chân của họ không những bị trầy vi tróc vảy
mà còn đủ màu sắc: chỗ thì xanh lè, chỗ thì tím ngắt, chỗ thì vàng vàng... Hỏi
ra mới biết vì ngứa quá không chịu nổi nên ai cũng cào rách da rồi lấy khế chua
hoặc ớt trái xát vô cho bớt ngứa. Khi da ngấm khế và ớt rồi lội xuống bùn thì
chân họ biến thành màu sắc thập cẩm vậy đó. Mọi người tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy
chân tôi không như họ, tôi liền truyền “bí kíp” của mạ tôi và ai cũng làm theo,
nhờ thế lần sau dù vẫn ngứa nhưng chân cẳng mọi người cũng dễ coi hơn.
Hôm sau vào giờ nghỉ trưa Hùng đến thăm tôi, hai đứa vừa
ngồi nói chuyện trên trời dưới đất vừa thi nhau đàn tơ-rưng vì ngày qua lội
Bàu. Ai xuống Bàu về mà không thành “nhạc sĩ” thì chắc chắn không phải
là người trần thế! Lúc về hắn ra trước hàng rào nhà tôi xách vô một nón ổi, từng
chùm hai trái chín trắng bóc thơm lừng dúi vô tay tôi nói “Có người ở xóm Sông tặng bạn…” rồi đi thật nhanh ra cổng. Tôi ngơ
ngác chưa kịp hỏi gì thì hắn đã biến mất tăm sau luỹ tre làm tôi cứ thắc mắc Ai
rứa hè? Ai dấu ổi chín vào hàng dâm bụt nhà tôi rứa hè?
Lạ thiệt! Tháng ngày qua mau, mùa gặt vụ trái đến rất
nhanh. Ở quê tôi để gặt hái kịp thời người ta thường có câu Mười bốn hơi xanh, rằm quá chín. Đó là
câu nói lo sợ việc thu hoạch không sớm thì bị trễ vì thời tiết khắc nghiệt. Về
mùa gặt tháng mười, nông dân ra thăm ruộng vào ngày mười bốn thấy lúa chín chưa
đều lắm, tính toán chừng vài hôm nữa thu hoạch để khi xay giã hạt gạo không
nát. Nào ngờ vào đêm đó trời mưa lớn, những trận mưa kéo dài ngày nầy qua ngày
nọ không dứt, nước dâng mênh mông rồi thành lụt, cả đồng lúa chìm ngập trong biển
nước. Thế là lúa chín trên cây lớp bị thối, lớp lên mộng, thôi thì vớt được chừng
nào hay chừng đó chứ biết làm sao được? Rằm quá chín là vậy.
Từ đó nhà nông quê tôi lưu truyền câu nhắc nhở xanh
trong nhà còn hơn tra ngoài đồng, vì thế nên mùa trái mọi người thường lo gặt sớm,
đề phòng mưa lụt dù lúa mới chín vang vang. Con đường xuống ruộng Bàu mùa nầy
nước lênh láng không đi được, chúng tôi phải ngồi trên ghe lấy đòn xóc chống xuống
nước để lần vào ruộng
Chuyện nông dân ăn cắp lúa là chuyện dài nhiều tập,
nói như mạ tôi là Bần cùng sinh đạo tặc. Thật là tội nghiệp cho người nông dân
thuở đó, vì mỗi công lao động xuất sắc đến mùa chỉ được chia 3 lạng lúa ướt
(lúa tươi, chưa phơi khén), còn công lao động học trò như tôi thì may ra còn một
nửa. Được mùa. Lúa vàng cả đồng, vàng cả sân đội nhưng phơi khô xong là đóng
bao chờ “trên” về chở đi. Ngày mùa mà người nông dân vẫn phải ăn độn.
Đói.
Thế là sinh ra ăn cắp. Họ ăn cắp chính cái họ làm ra.
Một lần tôi có đọc đâu đó người ta viết mỗi buổi tối họp ở sân đội xong là đống
lúa vơi đi, vì bà con ngồi họp bốc lúa cho vào túi. Sao mà nơi đó dễ dãi thế nhỉ?
Ở Hợp I của tôi làm gì có chuyện đó. Ngồi họp: lúa một nơi, người một nơi; vô
phận sự miễn đến gần. Làm sao mà bốc lúa bỏ túi được? Và thế là có ngàn lẻ một
cách ăn cắp khác, cái khó ló cái khôn mà. Tôi nhớ lần gặt lúa ở ruộng Thiên Tả.
Ngày hè ruộng khô ráo, những chẽn lúa no tròn nặng
trĩu dập dềnh theo gió tạo thành một tấm thảm vàng thơm ngát mênh mông đến tận
chân trời, chỉ nhìn thôi cũng đã thấy no. Nhưng lúa tốt mặc lúa, công lao động
của xã viên hợp tác xã đã được ấn định rồi, không phải vì được mùa là chia nhiều
lúa hơn đâu dù ai cũng thấm nhuần câu Làm tùy sức, hưởng theo lao động (!). Sau
một ngày làm việc vất vả, tối về người nông dân còn ngồi nghe cán bộ thuyết
giáo để mơ về một xã hội Làm tùy sức hưởng theo nhu cầu.
Trong khi chờ ngày được hưởng theo nhu cầu một cách
quang minh chính đại, họ cần đáp ứng một nhu cầu cấp thiết trước mắt là ăn. Có
lẽ vì thế nên không ai hẹn ai mà họ vừa gặt, vừa suốt lúa cho vào túi. Và sau từng
chuyến đưa lúa về sân đội những chị, những thím … vội vội vàng vàng đặt gánh
lúa xuống là nhanh chân về nhà uống miếng nước, phơi lại nắm rơm hoặc cho heo
ăn,… để trút nắm lúa chắc mẫm từ túi áo ra. Thu hoạch một ngày như thế gấp mấy
lần lúa được chia từ ngày công lao động chứ chẳng chơi.
Tôi thì không thể học tập điều ấy vì... chẳng có
gan..., bởi thế tôi chẳng tranh thủ được gì. Anh Thanh thấy vậy nhìn tôi cười
cười “Eng tam miềng có cách khác, mần rứa
chi cho mệt!”. (Bây giờ nhớ lại, tôi vừa thương vừa buồn cười chuyện lấy trộm
lúa của mình thời ấy). Chiều đó anh Thanh bảo “Vĩnh Phước từ từ rồi về với eng, đừng chạy tót về trước như mọi ngày
đó. Mà phải theo bén gót eng nghe chưa?”.
Vào thời điểm đó tôi đã biết xóc lúa cho mình và còn
xóc lúa dùm cho chị Dàn, chị Vân, … nữa. Tôi hay chạy về trước thật nhanh để
nghỉ ngơi, mặc ai làm gì thì làm, không thèm bận tâm. Chiều xuống. Chờ mọi người
rời ruộng hết, anh Thanh mới nháy mắt ra hiệu cho tôi và chị Dàn thủng thẳng
xóc lúa gánh về. Anh Thanh đi trước, tôi và chị Dàn theo sau. Lạ chưa! Anh
không đi đường ngoài xóm như mọi lần mà băng qua hàng tre để rẽ vào vườn nhà
tôi. Dù thắc mắc nhưng tôi vẫn lặng lẽ gánh lúa chạy theo. Đến nơi, anh bảo tôi
và chị Dàn đặt lúa xuống để xóc lại. Không nhìn hai chị em, anh vừa xóc lúa vừa
cười cười nói “Chừ anh xóc 4 bó lúa thành
3 gánh, còn phần em 1 bó, Dàn 1 bó nghe chưa?”.
Tôi hoảng hồn “Rứa
làm răng mà gánh?”, Thanh cười “Yên
tâm!” Nói xong, anh chỉ cách để ba anh em nối nhau gánh 3 gánh lúa chỉ có 4
bó về sân đội - nghĩa là gánh lúa đi trước và gánh lúa đi sau của anh Thanh và
chị Dàn; tôi đi giữa: cái đòn xóc chỉ ké vào bó sau và bó trước của hai người
kia thôi. Trong bóng hoàng hôn, người ngoài nhìn vào cứ tưởng ba người gánh lúa
chạy lóc xóc nối đuôi nhau - chúng tôi phải chạy thật nhanh mới đánh lừa mắt
thiên hạ được - về đến sân đội, cả ba anh em cùng quăng cái ào một lượt xuống đống
lúa nên chẳng ai nhận ra.
Thế là xong. Thật siêu đẳng! Chuyến làm ăn trót lọt
nhưng tôi sợ muốn đứng tim. Sợ nhất là lỡ bị phát hiện thì các buổi tối họp
thanh niên, tôi sẽ bị bêu danh dài dài từ làng nầy đến xã nọ. Mà tôi đang là
thanh niên rộng rãi, tiêu cực như thế thì làm sao “phấn đấu” vào thanh niên tiền
phong được nhỉ? * Tối đó, khi đem chuyện khoe với mạ tôi, tưởng bà bất ngờ lắm,
ai dè mạ tôi cười: “Hồi trước, đến mùa gặt
nhà ông nội con đã bị đám thợ gặt ăn cắp lúa bằng cách ấy đấy”. Trời! Thì
ra chuyện ăn cắp nầy đã có từ xưa, vậy mà tôi cứ tưởng đó là sáng kiến của anh
Thanh nên phục lăn. Chuyện ăn cắp lúa ở ruộng Bàu mới là bi hài.
Ngày mưa, những bông lúa vàng óng nặng trĩu ngã rạp
mình trên mặt nước. Mọi người gặt lúa tuy hăng hái nhưng vẫn nghe đâu đây tiếng
thở dài não nuột vì những “giã” lúa tốt như thế nầy thường đem đi nộp hết. Lần
đó, mấy người có nhiệm vụ chuyển lúa từ ruộng về sân đội bằng ghe, thấy bà con
gặt hái quá vất vả mà công cán chẳng được bao lăm, họ đã lén ông đội trưởng vùi
mấy ghe lúa xuống cống Đạc Nhứt để chia nhau.
Tối đó đi gặt về muộn, theo mật lệnh truyền tai, tôi
cùng mấy người trong xóm dò dẫm ra cống lấy lúa. Khi ngang qua ngõ nhà bác Cối,
trong bóng tối dày đặc tôi loáng thoáng thấy dáng người cao lỏng khỏng của đội
trưởng, hình như đang rình rập gì đó. Thôi kệ! Tôi nín thở rão bước ra cánh đồng
trước mặt, vì quen đường nên tôi tránh được những chỗ lầy lội trên đường xóm.
Nghe bước chân, chú Sinh lên tiếng bảo tôi lại gần rồi chất một bó lúa ướt, nước
còn chảy ròng ròng vừa vớt từ dưới cống lên cho tôi mang về. Đêm đó tôi mang về
nhà đâu chừng ba bốn bó lúa ướt như thế. Mạ tôi mừng vì được “chia lúa” nhưng
thương con đứt ruột, mạ xót tôi là đứa rất sợ đỉa mà phải đội những bó lúa như
thế về nhà sau cả buổi chiều
lội bùn chưa kịp ăn uống gì.
*Hồi
ấy Hội thanh niên chia làm 2 thành phần: Thanh niên tiền phong là những thanh
niên tiên tiến, gương mẫu - có cơ may được kết nạp vào đoàn thanh niên CS.HCM -
nên họ làm lãnh đạo trong Hội thanh niên địa phương. Số còn lại gọi là thanh
niên rộng rãi, ai phấn đấu tốt mới được kết nạp vào Thanh niên tiền phong. Khi
tôi về làng, tất cả những thanh niên như tôi đều thuộc thành phần thanh niên rộng
rãi, còn số thanh niên "kẹt cầu dài" đa số là thanh niên tiền phong.
Mỗi lần Hội thanh niên họp xong, những thanh niên tiền phong đều ở lại để họp
riêng, oai lắm!
Tôi nghĩ chịu cực một chút mà có thêm thúng lúa là tốt
rồi, sức thanh niên mà, cái gì người ta làm được thì tôi cũng làm được, thế
thôi. Mà trời thương hay sao nên bọn đỉa lúc nhúc dưới cống Đạc Nhứt bữa đó lại
chê tôi, tôi đội lúa ướt mấy chuyến thế mà không dính con nào chứ thiên hạ
không ai tránh khỏi. Đặc biệt có một người… thật là cười ra nước mắt! Hôm sau
đi làm, một chị hạ giọng kể cho lũ đàn bà con gái nghe rằng tối qua đội lúa về
xong, chồng của chị ra sân múc nước tắm, vừa tắm vừa kêu “Mạ mi ơi! Lạ thiệt! Răng mà tau có đến hai con chim ri?”. Chị vợ mắng
“Làm mệt gần chết mà còn đùa dai?”.
Anh chồng nhăn nhó “Tau nói thiệt! Không
tin thì mạ mi bưng đèn ra đây soi thử coi”. Và khi chị vợ bưng đèn ra soi
thì…
Trời ạ! Một con đỉa to tổ chảng đang đeo lủng lẳng
song song với … Nó hút máu no lắc lư nên phồng to như thế mà cũng chưa chịu
buông. Ha ha ha… Đám phụ nữ cười lăn lộn nhưng vừa cười vừa xót xa. Thường sau
tết là mùa nông nhàn. Thế là “trên” lên kế hoạch đi khai hoang trồng khoai, trồng
sắn. Câu ca dao “Tháng giêng là tháng ăn
chơi” của nhà nông lưu truyền bao đời đến đây xem như... bế mạc. Tôi nhớ lần
đi khai hoang ở núi Trâu Trằn (eo ơi nghe cái tên đã thấy khủng khiếp!) để mừng
hai huyện Hải Lăng và Triệu Phong hợp thành huyện Triệu Hải. Nghe nói vùng đất ấy
ngày xưa là nơi lũ trâu rừng chọn làm chiến trường. Ngày ngày, có hàng đàn trâu
rừng kéo đến để chọi nhau tranh ngôi bá chủ (?) làm cho cây cối ngã rạp cả vùng
đồi núi.
Vì thế khi ngang qua vùng nầy, những người đi rừng đã
gọi là núi Trâu Trằn - gọi riết thành địa danh luôn. Trời vừa mờ sáng, tiếng kẻng
đã vang lên khắp xóm đánh thức người đi khai hoang. Những người có trong danh
sách đi Trâu Trằn vội tập trung đầy đủ trước cổng chào của xóm. Ai nấy cơm đùm
gạo bới, chăn mền, áo quần được xếp gọn vào chiếc balô và một cái cuốc “lưỡi
gà” sắc bén vác trên vai. Từ xóm Bắc Tả, chúng tôi đi bộ vào xóm Sông, sang
sông Vĩnh Định trên chiếc đò ngang của làng Lam Thuỷ khi sương còn giăng kín mặt
nước.
Con đường làng lên xóm Rú lầy lội qua đám ruộng Thượng
Điền nhung nhúc đỉa, những bước chân vẫn lầm lũi đi tiếp. Trời sáng dần trên lối
mòn đất cát quanh co, những bia mộ thấp thoáng trong lùm cây đã hiện rõ. Đâu
đây mùi hoa dẻ thơm ngát ẩn khuất sau những ngôi mộ cổ. Đoàn người vẫn lặng lẽ
hướng về phía phía chợ Diên Sanh.
Qua chợ, chúng tôi lại tiếp tục đi lên ngã ba Hải Lăng
rồi theo con đường đất đỏ, như một đoàn quân ra trận mọi người nối nhau cùng thẳng
tiến Trâu Trằn. Rời nhà từ sáng sớm, lại phải vượt qua quãng đường dài nên bụng
đứa nào đứa nấy thi nhau réo ùng ục... biểu tình. May sao khi nhóm chúng tôi
đang cố vượt qua một con dốc cheo leo bên vách núi, bỗng nhiên cả mấy đứa đều
hướng mắt nhìn về một cái gì trăng trắng nổi bật bên lề đường đất bazan đỏ quạch.
A! thì ra là một khúc sắn chín khá lớn ai đó đi trước
(hay hôm qua cũng không chừng) đã làm rơi. Thế là không thể bỏ qua, mấy đứa đều
dừng lại. Anh Mỹ nhặt khúc sắn, lột hết lớp vỏ chang bên ngoài - cũng may nhờ lớp
vỏ chang bao bọc mà lõi sắn bên trong vẫn trắng tinh, thơm phức. Lột chang
xong, Mỹ bẻ chia cho mỗi đứa một khúc ngắn, chúng tôi ăn thật ngon lành. Tôi vô
tư phát biểu Sắn chang mà ngon dữ hè? làm anh Mỹ thở dài tiếp lời Bụng đói thì
ăn gì mà không ngon? Lần đầu tiên lên núi, tôi thấy gì cũng lạ, con đường chênh
vênh men theo triền núi đầy lau sậy, bên dưới là những thung lũng mù sương.
Thỉnh thoảng một con chim rừng lẻ loi chao cánh cất tiếng
hót lảnh hót rồi bay vút lên tận tầng không, để lại âm vang rung động cả núi rừng.
Hai bên đường từng cụm hoa dại cánh nhỏ li ti đủ màu sắc chen lẫn với những cọng
dương xỉ vươn ra từ vách núi trông như những bức tranh thêu sống động. Đến lưng
chừng núi thì đã quá trưa, tôi cùng chị Dàn, Thuỷ, Hoa, Thạnh, … tìm một bóng
mát bên đường để nghỉ chân và mở gói cơm mang theo ra dùng bữa.
Xong, chúng tôi hối hả đi tiếp cho kịp mọi người dù
đôi chân đã rã rời khi vượt qua mấy chục cây số đường bộ. Cũng may, lần nào đi
Trâu Trằn tôi cũng không phải mang vác gì cả. Cây cuốc thì có anh Mỹ hoặc Văn
vác dùm; còn Lành - cô bé cùng xóm kém tôi chừng hai tuổi - cứ đòi gánh ba lô của
tôi cho bằng được. Lành nói “Chị cho em
gánh luôn chơ em gánh một cái ba lô của em không cân, khó đi lắm”. Thấy
Lành dùng cán cuốc gánh hai chiếc ba lô chạy băng băng, miệng cười toe toét vì
đã giúp được chị, tôi thương làm sao! Trong chuyến đi đó có một chuyện tuy nhỏ
nhưng tôi không thể nào quên được, mỗi lần nhớ lại tôi lại nghĩ thầm “Phải chi mình nán lại dăm phút...”.
Sự đời mấy ai ngờ được, nay còn mai mất cứ như là giấc
mộng vậy. Lần ấy trên đường đi, khi đội xóm Tả của tôi đang leo lên con dốc thật
cao thì thấy Phúc - đội xóm Rú - ngồi dưới gốc cây bên vách núi cùng mấy đứa bạn.
Thấy chúng tôi, Phúc vừa ngoắc vừa gọi “Phước
ơi! Mỹ ơi! Phúc có chuyện bí mật muốn nói với hai bạn nì. Dừng lại đây chút
đi”. Tôi thấy trời chiều rồi, sợ không theo kịp đội nên vừa đi vừa ngoái đầu
nói “Chiều rồi...
Thôi,
để lên trại Phúc qua gặp bọn mình hi!”. Nghe thế anh Mỹ cũng bước
theo. Phúc đứng lên nói vói theo câu gì đó tôi không nghe rõ vì đang vội. Ai ngờ
chưa kịp gặp lại nhau thì đêm đó vì đói, Phúc cùng mấy người bạn bên đội hắn rủ
nhau đi nhổ mấy bụi sắn của xã Hải Trường thì bị bắn chết tại chỗ. Buổi sáng
nghe tin Phúc chết, chúng tôi bàng hoàng thương tiếc một đứa con trai tuổi xuân
còn phơi phới, một mạng người chết oan uổng chỉ vì mấy củ sắn non. Nhưng rồi mọi
chuyện trôi êm, không ai truy cứu và chuyện bí mật mà hắn định nói với hai đứa
tôi cũng theo hắn mãi mãi nằm yên trong lòng đất lạnh.…
Vượt qua bao đèo dốc, cuối cùng chúng tôi cũng dừng lại
giữa một vùng núi đồi bao la khi bóng cây trong nắng chiều đã ngã dài bên vách
núi. Mệt thế mà chẳng ai dám nghỉ ngơi. Mọi người phải nhanh chóng túa vô rừng
tìm vật liệu để dựng trại liền, nếu không khi đêm xuống đành ngồi giữa núi rừng
hoang vu giá buốt nầy thôi.
Đám đàn ông, con trai thì đi chặt cây: cây nào to dùng
để làm cột làm kèo; cây nào nhỏ thì róc vỏ và gai góc sơ sơ rồi làm vạc giường
để ngủ. Bọn đàn bà, con gái mỗi đứa một cái liềm, từng nhóm đi tìm và cắt cỏ
tranh tươi về đan thành tấm, lợp mái nhà cho kịp trước khi trời tối. Xen lẫn
trong đám cỏ tranh là những bụi cỏ lác bén như dao, khi đưa tay nắm lọn tranh để
cắt, bọn tôi đứa nào cũng bị lá cây lác cắt đứt tay, máu chảy ròng ròng mà
không dám than. Nghe nói ở rừng mọi thứ đều thiêng nên phải kiêng, bị đứt tay
mà la đứt tay là cứ bị đứt liên tục nên đành cắn răng chịu đau.
Những người lớn có kinh nghiệm mách nước rằng muốn cầm
máu thì quơ đại vài cọng lá cây mắc cỡ non hoặc vài lá rừng, nhai nhai rồi đắp
lên vết thương là cầm liền. Tôi làm theo và đúng như thế. Hay thiệt! Khi hoàng
hôn lan tím cả núi đồi thì lán trại cũng vừa dựng xong. Chúng tôi vội vàng kiếm
củi nấu cơm, khói bếp hoà với sương núi ôm trọn mái nhà tạm thơm mùi lá rừng
ngai ngái. Giấc ngủ ở rừng chập chờn bởi những tiếng chân, tiếng hú của thú
hoang cùng những đợt gió rừng thét gào trên ngàn cây vi vút.
Trong màn sương đêm dày đặc, những ánh lân tinh lập
loè khắp đồi núi. Người ta nói mấy năm trước nơi đây người chết vô số, có lẽ vì
thế mà oan khí của họ đêm về lại chấp chới qua ánh lân tinh. Buổi sáng, sau khi
ăn vội vàng vài miếng, tôi cùng mọi người rời trại để đi khai hoang. Trên đường
đi, chúng tôi gặp những đồi sim bát ngát, hoa tím đẹp đến não nùng. Có ai đó
không cầm lòng đã cất tiếng hát Những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều
hoang biền biệt. Vào chuyện ngày xưa…Câu hát bỗng đứt nửa chừng, có lẻ vì ai đó
thúc cùi chỏ nhắc nhở hoặc tay ca sĩ ngẫu hứng chợt nhớ ra.
Trời! Dám hát nhạc vàng sao? Dù là nơi núi rừng hoang
vắng. Nghe nói thời chiến tranh, vùng đất có tên Trâu Trằn này từng là nơi diễn
ra giao tranh ác liệt của đôi bên. Những đồi núi trập trùng hiểm trở mang tên Động
Ông Đô có hàng rào điện tử McNamara đã trở thành vùng đất chết trong hàng chục
năm. Chính vì thế nên khi đến đây khai hoang và tháo gỡ bom mìn, chúng tôi
không còn thấy bóng dáng một con trâu nào mà lại nghe mọi người kháo nhau về
ông cọp ba móng.
Đó là một con hổ hung tợn đã bị lính đóng ở Động Ông
Đô bắn què một cẳng vào đầu thập niên 70. Núi rừng bom đạn trải thảm thế nhưng
chẳng diệt được cọp ba móng mà khiến nó ngày càng hung dữ và khôn lanh hơn.
Nghe đâu khi đêm về, con cọp thành tinh ấy thường lởn vởn quanh trại những người
đi rừng. Một lần có ông “thợ cội” * ghé trại tôi ngủ nhờ qua đêm, ông ta kêu mọi
người đốt một đống lửa thật to giữa trại để ngăn cọp rình mồi vì nó rất sợ lửa?
*Thợ
cội: Là người đi rừng chuyên nghiệp nên họ thuộc hết mọi ngõ ngách của rừng. Họ
vào rừng sâu để săn lùng những cây gỗ quý. Họ thường kín đáo, lầm lì và ít nói.
Trông họ rất bí hiểm. Theo truyền thuyết, thợ cội thường đi rừng một mình và hầu
như suốt đời họ sống với rừng già.
Đêm về, ông ta đốt một đống lửa to, dùng một khúc cây
khoét rỗng ruột úp xuống đất để ngủ và khi nào bên cạnh cũng có một khúc cây để
tự vệ. Rừng đêm lạnh, cọp thường đến hơ lửa cho ấm. Có khi con nầy đến rồi con
khác đến, ông thợ cội từ trong chiếc giường ngủ đặc biệt lén thò tay ra cầm
khúc cây hất nhẹ một cục than hồng vào một con cọp.
Con cọp bị than nóng gầm lên tấn công con kia, chúng
kéo nhau ra rừng để thanh toán nhau. Thế là ông thợ cội ngủ ngon.
Mọi người lại kháo nhau rằng hình như con cọp ấy theo
rình để bắt người thợ cội, vì lúc ông ta rời khỏi trại thì không còn nghe những
tiếng kêu bép! bép!... vang vọng trong đêm khuya nữa. Tuy vậy chúng tôi vẫn nơm
nớp sợ, vì không biết ông ba mươi ghé lại lúc nào và sẽ lượm ai đi. Suốt 45
ngày trên núi đồi đầy bom đạn, Mỗi lần tập trung khai hoang là các cán bộ xã
vác loa rao thật to Cách xa ra, cách xa ra mỗi người 2 mét. Không được đứng sát
nhau! Cách xa ra, cách xa ra mỗi người 2 mét. Không được đứng sát nhau!...
Đó là vì họ sợ trúng đạn nổ sẽ chết hoặc bị thương nhiều
người. Tôi, Như Ý, Châu và chị Dàn cứ đứng sát sạt nhau mà cuốc. Chúng tôi thường
nói hễ cuốc trúng thì mấy đứa cùng chết luôn chứ sống mà tàn tật khổ lắm. Thấy
bọn tôi cứ xáp vô nhau, xã đội trưởng Khuynh chạy tới nạt “Mấy o ni có nghe chi không? Xức ra, xức ra mà cuốc chơ, lỡ bị
trúng đạn chết hết răng?”. Bọn tôi cười cười đứng dang ra nhưng khi xã đội
trưởng quay lưng đi là lại xáp vô như cũ.
Hồi đó đâu có nhiều lễ hội như bây giờ nên mỗi lần đi
khai hoang, đi phá gỡ bom mìn hoặc đi thuỷ lợi, … bọn tôi xem như đi hội vậy. Hội
khai hoang ở Trâu Trằn “hoành tráng” lắm. Bên đồi ni cuốc và hát hò, đồi bên tê
cũng hát hò và cuốc. Đang hăng say cuốc, bỗng bên đồi xã Câu Nhi đang khai
hoang nghe một tiếng nổ long trời, tiếng khóc la vang dậy, cáng võng chạy rầm rập…
Ngay lúc đó, loa phóng thanh xã tôi cũng vang to không kém Tiến lên! Tiến lên!
Tiếng hát át tiếng bom. Biến đau thương thành hành động. Tiến lên! Tiến lên!
Chúng tôi cứ cuốc và cuốc, cứ vài nhát cuốc lại gặp mấy quả đạn mắc trong vỏ
lon đồ hộp treo lủng lẳng trên vòng thép gai hoặc đạn 105 li, bom bi thì vô số.
Tôi cuốc trúng một quả gì màu vàng sáng, to bằng nắm
tay rất đẹp, hồi đó tôi vừa rời ghế nhà trường nên khờ lắm, đến nỗi hình thù
các loại đạn và sức công phá của chúng ra sao cũng chẳng hề biết. Mấy đứa con
gái tranh nhau cầm lên xem, trầm trồ khen đẹp rồi tôi kêu Quốc “Quốc ới ời ơi …! O tặng cháu nè…!” Quả
vàng đẹp đó xoay xoay trên cao bay về phía Quốc. Hắn dòm lên rồi vất cuốc phóng
như điên, vừa chạy vừa la “Ui o ơi! Quả đạn
79 đó, hắn nổ là chết a”. Tôi sợ hết cả hồn, may sao nó chưa nổ. Mấy người
du kích đến cắm cạnh nó một nhánh cây báo hiệu để mọi người đừng đến gần. Tới
trưa thì nó nổ, cát bụi bay mù mịt.
Tôi tiếp tục cùng bà con vỡ đất khai hoang trong sự
thiếu thốn mọi mặt về những sinh hoạt hàng ngày. Cái chết luôn rình rập dù người
ta bảo đất nầy đã được tháo gỡ bom mìn song thực tế thì bom mìn vẫn thỉnh thoảng
cười để dậy trời tiếng kêu khóc. Mỗi ngày chúng tôi cuốc đất rừng, chặt sát gốc
những cây gỗ cứng ơi là cứng. Có khi cuốc trúng vào gốc cây làm quăn cả lưỡi cuốc
bằng thép. Để khai phá xong một vạt đất rừng chúng tôi phải đổ không biết bao
nhiêu là mồ hôi và nước mắt, có khi đánh đổi cả sinh mệnh con người.
Những làn da xạm nắng, những bàn tay cầm cuốc rướm máu
đau buốt và những cơn sốt rét rừng nghiệt ngã cũng không tha cả những thanh
niên trai tráng, lực lưỡng. Những người đi khai hoang Trâu Trằn thường đi theo
đội - nghĩa là dân ở cùng xóm nên thường là bà con thân thích cả. Đội nào cũng
có người lớn tuổi đi theo, họ không chỉ là tay nhiều kinh nghiệm, dày dạn trong
lao động mà còn là bậc phụ huynh vừa bảo vệ, vừa quản lý bọn trẻ chặt chẽ trong
thời gian sống xa nhà. Chúng tôi rất đoàn kết và lo lắng cho nhau, đám phụ nữ
luân phiên lo việc bếp núc ăn uống cho mọi người. Mỗi lần đến phiên mình làm chị
nuôi, tôi về chợ Diên Sanh mua thức ăn cho cả đội, một mình tôi phải vượt qua hết
núi nầy tới đồi kia với gánh thực phẩm kĩu kịt trên vai, có khi cả đi lẫn về
cũng gần hết một ngày trời. Có lẽ những gian khổ đó đã ghi sâu vào ký ức tôi
không thể phai mờ nên cho đến nay, thỉnh thoảng trong giấc mơ, tôi lại thấy
mình đi trên con đường đồi núi chênh vênh đó.
Thức ăn mua về chỉ dùng được trong vòng hai ngày nên
muối và rau rừng là thức ăn chính của đội. Có hôm mãi lần theo những cọng rau rừng
xanh mướt, tôi đi lạc lúc nào không hay. Chỉ biết khi ngẫng đầu lên thì thấy
chung quanh lạ hoắc. Tay chân run lẩy bẩy nhưng tôi vẫn khu khư ôm chặt chiếc
nón đựng đầy rau rừng. Tìm bóng râm, tôi ngồi phệt xuống, định thần lại cho tâm
bình tĩnh để tìm lối ra. Tôi nhớ những người lớn tuổi có dặn rằng nếu lạc ở rừng
thì cứ tìm suối hoặc sông, rồi men theo bờ mà đi thì sẽ tìm được đường về.
Cảnh đẹp của thiên nhiên vừa thơ mộng vừa hùng vĩ
nhưng tôi không dám nán lại để thưởng thức mà nhanh chóng men theo bờ sông. Sau
một hồi quanh co, tôi tìm lối về trại không mấy khó khăn. Hôm đó ai cũng vui vì
được ăn một nồi canh rau tươi thơm ngon nhưng họ đâu biết rằng vì ham hái rau
mà tôi suýt lạc mất lối về. Khi đã quen nơi quen chốn, vào giờ nghỉ trưa chị
Thương thường hẹn tôi lội dọc theo con suối nhỏ lên tận đầu nguồn, đến chỗ có một
vòm cây che kín và mấy tảng đá nhỏ nằm ven suối tròn trịa rất đẹp. Hai chị em nghĩ
nơi đây có lẽ chưa ai biết đến nên đã cùng nhau tắm giặt thật vô tư, chúng tôi
còn cất tiếng ca những bài hát mình yêu thích giữa núi rừng hoang vắng mà không
sợ bị ai nghe nữa chứ.
Những khoảnh khắc ấy mới tuyệt vời làm sao! Sau khi
khai hoang xong, mọi người lại tiếp tục làm đất. Trong công việc chúng tôi cũng
có những trò ma giáo, ăn gian vui đáo để. Đó là khi ban đo đạc của xã đến kiểm
tra số đất khai hoang của từng đội để tính điểm. Đội của tôi do cậu Lộc - đội
phó sản xuất - chỉ huy. Lần nào cũng thế, khi có “ông đo đạc” tới là cậu Lộc
kêu tôi cùng làm việc. Tôi cầm cây sào dài 5 mét trên tay, cứ thế vừa gợi chuyện
vừa đo đất. Biết đôi mắt “ông đo đạc” không nhìn xuống cây sào trên đất mà cứ
mãi nhìn mặt tôi để kịp góp chuyện nên cậu Lộc cứ nháy nháy mắt ra dấu. Tôi hiểu
ý nên cứ đo được một cây sào tôi lại lùi chừng nửa mét.
Nhờ thế đội tôi lời quá trời luôn, đúng là làm chơi ăn
thiệt! Người của đội tôi đa số là con gái yếu đuối, làm việc cành khơi vậy mà một
ngày có khi tới ba, bốn chục điểm, gấp mấy lần công điểm lao động ở làng. (10 điểm/ngày là công điểm cao nhất ở làng).
Thấy đội chúng tôi khi nào điểm cũng cao, các đội kia ức lắm mà không hiểu được
lý do, họ cũng không dám nói ông đo đạc của xã thiên vị. Thấy họ tức, thím Thẩm
xỏ tay vô túi áo, đứng ưỡn ngực khoe đội ta phần lớn là dân chiêu chang mà lao
động giỏi hơn đội họ toàn cá trê (cứng cựa, mạnh).
Nói xong thím còn cười cười ra vẻ đắc thắng làm thiên
hạ tức lộn ruột. Khi đất đã lên vồng, chúng tôi bắt đầu trồng khoai và sắn trên
đất mới. “Trồng khoai bén tay, trồng sắn
bay bụi”, đó là những kinh nghiệm của nhà nông: những ngày mưa chúng tôi trồng
khoai và ngày nắng thì trồng sắn. Buồn cười nhất là Trà, hắn cao lớn lênh khênh
mà lại lười biếng. Cuốc chừng vài nhát là hắn mang cuốc đi “tra” lại, vì cán đi
đường cán, lưỡi văng đường lưỡi.
Cậu Lộc bực lắm nên cứ la hắn bằng những câu nói thật
nhanh “Tau... tau là cái thằng hay la mà
mi răng cứ nhác nhớn dữ rứa? Rứa chơ khi bình bầu thì cứ đòi xếp loại A vì to
con đó”. Còn tội nhất là chú Học, thấy Hoa và Thạnh nhỏ con lại ốm yếu cuốc
không kịp, chú thường chạy lui cuốc dùm cho mấy đứa mà không tính toán gì cả.
Khi vạt đất của đội đã phủ đầy thì chúng tôi nghỉ tay...
May mà số sắn trời cho ấy xắt nhằm mấy ngày nắng lớn
nên khi phơi khô lát sắn trắng bóc, thơm tho. Còn những lần sau gặp ngày mưa,
chúng tôi đành ngâm cả bao sắn xuống suối cho khỏi bị hư, đợi có nắng mới đem
phơi để gánh về cho nhẹ. Mà sắn xắt nhằm ngày mưa dù phơi có khô nó cũng không
ngon, lát sắn bị thâm xỉn. Nhờ mấy bao sắn mót từ rừng đem về nhà, bà con trong
đội đã chống đói được một thời gian đáng kể.
Tuy việc làm vất vả, nhưng ngày tháng sống ở rừng đôi
khi cũng thú vị. Vào những trưa nắng gắt mặt trời như rọi sát trên đầu, thừa
lúc người lớn nghỉ trưa, bọn trẻ lại hẹn nhau phơi nắng rảo khắp đồi núi rồi lội
dọc con suối nhỏ tìm kiếm những điều mới lạ.
Có khi bắt gặp cả một khu rừng đầy hoa sim, hoa mua
tím ngát hay lạc vào những vùng đất hoang sơ đầy cây cao bóng cả như chưa từng
có dấu chân người. Tôi nghe người ta kể xưa những người đi rừng có khi ngang
qua một khu rừng đầy chuối, đầy mít hay đầy cam trái chín vàng ửng. Họ đánh dấu
định ngày về sẽ ghé hái một ít nhưng khi trở về thì không bao giờ gặp nữa, hầu
như họ đã đi lạc qua một vùng đất khác. Người ta bảo đấy chính là của rừng, hái
ăn tại chỗ thì được chứ đừng hòng mang về. Chúng tôi muốn đi sâu vào rừng già để
tìm những khu rừng trong chuyện kể đó nhưng làm gì có thì giờ, đành phải trở về
thôi vì tiếng kẻng báo ca chiều đã vang lên.
Chiều ở rừng thường đến sớm, mới thấy mặt trời hoe
hoét đó mà chỉ một lúc là sương mờ đã giăng bủa khắp nơi. Những ngày mưa chiều
xuống càng nhanh hơn. Trời sầm sập tối, nhìn ra ngoài bìa rừng chỉ thấy một
không gian mịt mờ ảm đạm. Những lúc như thế, tôi lại nhớ đến những ngày còn ở
nhà, mỗi chiều đi làm đồng về muộn, khi ánh hoàng hôn đang nhuộm màu bóng tối
trên con đường đất quanh co phủ bóng tre xanh dẫn lối vào nhà, tôi thích nhìn
bóng mình in trên con đường thân thuộc dưới ánh trăng non đầu tháng. Vào mùa
trăng, khi bước đi trên con đường đầy trăng lấp loáng sau những bóng tre, tôi
vu vơ nhẩm lại bài tập đọc từ hồi còn nhỏ Ngày
chưa tắt hẳn trăng đã lên rồi. Mặt trăng tròn, to và đỏ…
Khi đêm xuống, rừng bao phủ trong một màn đêm huyền bí
đầy đe dọa, đâu đây tiếng thú hoang gầm gừ từ xa vọng về; tiếng vạc kêu sương
nghe khắc khoải và cả tiếng vượn hú càng tăng vẻ thê lương. Nhưng đến mùa trăng
thì lại khác, trăng ở rừng như gần gũi với chúng tôi hơn. Rừng núi trong đêm
trăng không còn dễ sợ, những cây lá, cảnh vật lấp loáng dưới ánh trăng trông thật
thơ mộng, huyền ảo. Trăng tỏa bóng mát êm dịu xuống cả một vùng đồi núi bao la.
Mấy đứa tuổi thanh niên như tôi thường cùng nhau thả bộ ngắm trăng.
Những nấm mộ trong rừng hoang
Chúng tôi đi từ con dốc nầy qua con dốc khác, vừa đi vừa
ca hát, chuyện trò. Khi dừng lại ở một đỉnh dốc cao nhất, cả bọn bày trò chơi.
Đề tài: Bạn thích nhất đêm trăng nào trong tháng. Tại sao? Trò chơi nầy lúc nào
cũng mới mẻ và đầy hấp dẫn, nhất là với mấy đứa mới nhập hội “chơi trăng”. Những
lúc như thế, chúng tôi gần như quên hết mọi gian lao, vất vả; chỉ còn người và
trăng bàng bạc cả núi rừng và bàng bạc cả những tâm hồn non trẻ. Có lúc mãi
chơi quên cả thời gian, khi chúng tôi chia tay nhau về trại nghỉ thì tóc tai,
áo quần đứa nào cũng ướt đẫm sương đêm.
Ngày ngày công việc cứ đuổi theo chúng tôi không ngơi
nghỉ, vừa thu hoạch khoai, sắn ở rừng xong là lúa ở làng đã vàng rực cả đồng. Vụ
mùa năm sau vui hơn vì có bà con ở Trung Du về giúp sức. Tôi còn nhớ có chú
Tùng, trước khi đi xây dựng vùng kinh tế mới Trung Du có nhà ở bên kia sông.
Chú thường lấy đòn xóc của tôi làm điểm tựa để bó lúa. Khi thấy lúa đã đủ chuyến,
chú xóc cho tôi một gánh lúa thật gọn và chắc đặt trên bờ ruộng rồi hô to V…ề …ề
….
Thế là mọi người ùa nhau chạy đi tìm những bó lúa vừa
ý để xóc và gánh về, trong khi đó tôi đã được chú đặt lên vai gánh lúa sau khi
gọi “Bé con, lại đây…” Với gánh lúa vừa
ý trên vai, con đường về sân đội đối với tôi dường như ngắn lại, vừa thả hai bó
lúa thơm tho xuống là tôi quày quả về nhà ngay. Ở nhà, mạ tôi lúc nào cũng nấu
một nồi chè hoặc cháo đậu múc sẵn từng chén đặt trên bàn cho con gái. Cháo mạ nấu
thật ngon, hạt gạo chín mềm quyện với đậu đỏ bùi bùi thơm phức. Khi ăn, tôi thường
đồ cháo ra lòng bàn tay, chén cháo đông lại gọn gàng trông thật thích mắt, cắn
một miếng cháo rồi lại cắn một miếng đường đen. Tuyệt! Có ai đã từng ăn cháo kiểu
như tôi không nhỉ? Hãy thử một lần để cảm nhận nhé!
Với tôi trong miếng ăn giản dị ấy sao mà ăm ắp tình mẹ
bao la quyện lẫn với hương vị quê nhà thật là đậm đà, tha thiết. Cũng có khi là
mấy khúc mía cơm rượu ngọt lừ - loại mía da tím, mềm và dòn - đã róc vỏ sạch sẽ
hoặc chùm ổi chín thơm phức; đó là những thứ mạ tôi trồng lại trong vườn nhà
sau ngày hồi hương. Tôi là chúa lười ăn nên mạ phải nấu đủ thứ để trên bàn như
thế, mỗi chuyến lúa về nghỉ giải lao, tôi thường rủ chị Dàn và mấy đứa trong
xóm ghé nhà ăn bữa lỡ của mạ để dành cho tôi. Những trưa hè nắng gắt đi làm đồng
về, tôi thường dừng lại một lát trước cổng nhà mình để nghỉ ngơi; để tận hưởng
cái mát mẻ từ bóng tre tỏa xuống.
Cổng nhà tôi là một mái vòm mát rượi được uốn chụm đầu
nhau từ hai bụi bông kiểng thật to, hàng rào trên lối vào cổng luôn được cắt
xén thẳng tắp. Ngày nào cũng thế, từ những cành xanh vòng cung thành cái cổng
xinh xinh ấy đong đưa những đoá hoa cánh mỏng đỏ tươi mới nở như những chiếc lồng
đèn rực rỡ. Ngày hè hoa càng nở nhiều hơn, có khi những chiếc lồng đèn bằng hoa
ấy thi nhau nở, xúm xít từ cổng đến mặt đất.
Hai bên đường vào sân là hai hàng huệ tây nở đầy hoa hồng
tím, những đoá hoa có màu sắc thật ngọt pha lẫn mùi hương nồng nàn của các loại
hoa khác trước sân nhà tạo cho tôi một cảm giác thật dễ chịu. Có khi tôi chưa vội
vào nhà mà dừng lại ở bậc thềm chái nhà đầu hè để ngắm những chùm hoa lựu lập
lòe, lòng lại mơ hồ về một câu thơ của cụ Tiên Điền ngày trước. Những lúc rảnh
rỗi, tôi thường chăm chút cho từng gốc cây, bụi hoa và việc làm đó đối với tôi
thật là thú vị!
Thời đi học tiếp sau ngày 30/4/75, tôi nhớ có học một
bài thơ ca ngợi lao động ở miền Bắc gì đó mà có câu “Không cho đất nghỉ, không ngừng tay ta”. Câu đó thật đúng với cuộc
sống của người dân ở quê tôi ngày ấy. Việc làm luôn tay, kể cả ngày mồng một tết
cũng tiếng kẻng vang xóm kêu gọi bà con tập trung để “ra quân” trồng cây đầu
năm.
Làm cực thế mà có đủ ăn đâu, những lúc đi làm đồng xa
phải đem bữa trưa theo, tôi nhìn bà con nhai khoai sắn thay cơm mà lòng xót xa
quá đổi. Tôi thì khá hơn vì mạ tôi không còn tuổi lao động nên bà có quyền làm
ăn cá thể. Những tưởng con gái đang tuổi lao động chính đi làm nuôi mẹ già, đằng
này nhờ mẹ già chắt chiu nuôi con gà, trồng cây rau, cây cải mà con mới có bữa
ăn đầy đủ; còn những gia đình như “chị Dậu” thì không thiếu đâu, dù họ làm quần
quật quanh năm suốt tháng không nghỉ ngày nào như nhà văn hiện thực phê phán
Ngô Tất Tố đã viết.
Vừa xong việc trên đồng cạn, tôi lại cùng mọi người
tham gia khai hoang đồng sâu ở Đồng Dương. Hình như bất cứ lúc nào có chuyến đi
dài thì đêm trước ngày xuất phát, chúng tôi cũng phải họp nghe triển khai kế hoạch
để mọi người quán triệt vấn đề rất khuya, dù cán bộ phổ biến gì bà con cũng nhất
trí cao hết. Gà gáy eo oóc mới họp xong, mỗi người về nhà lục đục lo sửa soạn gạo
muối, vật dụng xếp vào ba lô chuẩn bị cho chuyến đi ngày mai.
Xong xuôi, lên giường nằm chưa nóng chiếu thì kẻng báo
thức đã vang lên. Tôi mắt nhắm mắt mở vừa thức dậy thì mạ đã nấu cơm chín từ
lúc nào. Trong khói bếp thơm mùi rơm mới, mạ vừa giục tôi gắng ăn để có sức mà
đi, vừa hơ mấy ngọn lá chuối non trên lửa cho mểm để gói cơm cho tôi mang theo.
Đường vào ruộng sâu rất xa, có khi chúng tôi đi bằng
thuyền, có khi đi bộ phải lội qua không biết bao nhiêu là con mương rộng và
sâu, nước ngang ngực. Tôi thích đi bằng thuyền hơn vì vừa đỡ mỏi chân, vừa khỏi
sợ bị đỉa đeo khi băng qua đồng; lại được nhìn cảnh vật lạ mắt hai bên bờ sông.
Thuyền trôi qua những bến nước vang vang tiếng cười đùa của đám con nít tập
bơi. Cánh đàn ông, con trai cứ nhắm vào mấy o đang chao thùng múc nước hay mấy
chị giặt giũ đưa bàn tay đập vải thành tiếng bồm bộp lan xa trên mặt nước, để cất
tiếng hò trêu ghẹo.
Lắm khi mấy o, mấy chị cũng hò trả treo đáo để không
kém. Thích nhất là khi thuyền qua vùng Lương Chánh - Thượng An, nhìn những bãi
bắp xanh mướt trên đất bồi ven sông bạt ngàn thật là trù phú. Từ con sông Vĩnh
Định, thuyền rẽ vào một nhánh khác về phía Vân Trình để vào ruộng sâu.
Đoạn sông này vừa nông vừa hẹp nên có những khúc sông
không cần dùng mái chèo mà chỉ dùng sào để chống. Khi đến ruộng thì mặt trời đã
đứng bóng, tôi cùng bà con rời thuyền, bờ sông ở đây nhỏ như bờ đê ở làng tôi vậy.
Trên bờ sông, chúng tôi ăn vội bữa trưa mang theo, vừa ăn xong là phải xuống ruộng
ngay kẻo chiều nước dâng không làm được lại mất một ngày.
Vì suốt ngày lội ruộng nên chúng tôi chả cần dựng lán
trại, đêm về chỉ cần vác cái mui thuyền lên úp trên đê để làm chỗ ngủ. Vì đông
người nên mấy đứa con gái như tôi, Hoa, và các chị Dàn, Ba, Vân, Thương, … nhường
cái mui ghe cho cánh đàn ông. Phía nữ chúng tôi lấy cuốc của mình cuốc mạnh xuống
đất cho lưỡi cuốc dính cứng vào đất rồi cứ hai đầu cán cuốc bắt chéo lại với
nhau thành điểm tựa. Từ các điểm tựa ấy, chúng tôi lấy nilong treo lên làm mái
che, thế là có ngay cái trại tạm thời để ngủ. Khi trời sáng thì "dỡ trại":
nilong mang vào người; cuốc vác trên vai. Thế là xong! Có khi ngủ nửa đêm nước
sông dâng cao tràn lên bờ, chúng tôi ai nấy ướt lói ngói, rơm và củi đem theo để
nấu ăn cũng vắt ra nước, những cái bếp Hoàng Cầm ướt nhẹp nên cơm sống và khê
là chuyện bình thường.
Buổi sáng mùa đông rét buốt, gió lạnh thấu xương. Tôi
cùng mọi người chuẩn bị đi làm. Từ trên bờ sông nhìn đoạn đường phải lội qua thấy
mà ngao ngán. Xa xa, trên những mô đất nhô lên giữa mặt nước mênh mông có những
con chim to xù cất tiếng kêu nghe sao mà thảm thiết. Tôi hỏi chú Học “Loài chim chi kêu mà nghe thảm rứa chú hè?”.
Chú Học mím mím môi, nhìn trời nhìn nước một lúc rồi tỉnh bơ trả lời “Chim nớ có tên là Ui chao ôi! Ui chao
ôi!…”. Tôi và mọi người cười chảy nước mắt, nhưng lắng nghe thì tiếng chim
kêu như thế thật! Có lẽ nơi đây đồng không mông quạnh, quanh năm nước ngập, ruộng
đồng bao la vắng vẻ quá nên những con chim đó mới cất tiếng kêu buồn da diết vậy.
Trời mưa, mưa không ngớt.
Chúng tôi rét cóng tay; môi tím tái; răng va vào nhau
lập cập. Lạnh thế nhưng ai nấy đều phải vác cuốc trên vai rồi cùng ào xuống ruộng,
lội vào tận chỗ khai hoang của đội mình để làm việc. Đến nơi, mấy đứa con gái
có nhiệm vụ lội trước, dùng liềm cắt dọn cỏ để cho nhóm đàn ông theo sau cuốc
ruộng. Từng nhát cuốc vung lên, phập xuống. Đất đâu chẳng thấy mà chỉ thấy vấy
lên từng mảng bùn phèn tan vào nước hoặc quánh lại trôi lềnh bềnh cùng đám cỏ
lác. Chúng tôi nhìn nhau, đứa nào đứa nấy mặt mũi lấm bùn. Thỉnh thoảng, Hoa
hét lên một tiếng kinh hoàng và vọt chạy té sấp té ngữa khi quơ phải một con rắn
trong đám cỏ lác. Còn đỉa ở đây thì nhiều vô kể, những con đỉa to chi mà to lạ!
Có con bằng con lươn chứ chẳng chơi, con thì cuộn tròn như con ốc, con thì lượn
tới lượn lui dài lằng ngoằng thấy mà nổi gai ốc cùng mình.
Nghe đau và khó chịu ở chân, tôi kéo chân lên và quay
lại nhìn thì ôi thôi: một con đỉa dài thượt đã “đo” hết ống chân tôi. Vừa sợ vừa
ghê, tôi bặm môi nghĩ Một là mi chết, hai là tau chết rồi cố hết sức dùng cái
cuốc lưỡi gà sắc bén gạt một phát từ trên xuống, không biết nó chết hay không
chứ tôi thì bị nhát cuốc kéo rách một mảng da máu chảy ròng ròng. Dù đau lắm
nhưng vì quá kinh hãi nên tôi không dám nhìn lui nữa. May mà nó rớt đằng nào
không biết.
A! đây rồi, ai cũng quay sang nhìn thì... Trời ạ! Chú
lại đưa lên một con cá to bằng điếu thuốc, những tràng cười hi, ha… lại vang
vang trên mặt nước. Mới qua buổi trưa mà mọi người đã bắt được gần đầy thùng
cá. Chiều đó lúc trở về, tôi cùng chị Dàn, Hách, Sinh, Học, Quốc chèo thuyền
qua chợ Vân Trình mua gia vị về kho cá.
Chú Hách hồi đó để ý chị Dàn nên cứ nằn nì o bán hàng
thêm cho một khoanh đường táng để tặng chị Dàn (Ôi! Một mối tình đơn phương chỉ dám nhìn và trao… táng đường…). Đến
bữa cơm tối, mọi người ăn cá nhiều hơn cơm. Còn tôi có một nồi cá đặc biệt do
ông bác cùng xóm - mà sau nầy là ba chồng tôi - kho riêng trong cái nắp cà-mèn.
Bác biết tôi không ăn cá trê, cá lóc nên đã lựa mấy con cá rô, cá trắng nhỏ xíu
để kho riêng cho tôi. Thật là cảm động!
Hết chuyện ăn đến chuyện ngủ. Buồn cười nhất là lúc bắt
đầu đi ngủ, thấy chú Trụ bước ra đổ hết nước uống trong nồi rồi úp luôn cái nồi
xuống đất, ai nấy nhao nhao “Chú đổ hết
nước, đến khuya khát lấy chi mà uống?” Chú Trụ cười đáp tỉnh queo “Chơ lúc tối ai cũng ăn mặn cá mần răng
không khát? Mà khát thì phải uống nước, mà uống vô thì mắc tè, mà mắc thì phải
đi chơ nín răng được? Rứa có phải tau tra, bây cho nằm ngoài làm ranh giới mà cứ
hết đứa ni lại đến đứa tê đi vô đi ra, bước qua bước lại trên người tau cả đêm.
Rứa thì mần răng tau ngủ? Đổ nước đi là thượng sách!”. Nghe chú nói, dù bị
khát khô cổ nhưng ai nấy cũng không nín được cười.
Sau mấy ngày, ruộng làm xong đã đến lúc cấy lúa.
Mạ non ở làng được chất đầy từng thuyền đưa vào ruộng,
tất cả mọi người đều cắm cúi cấy thật nhanh vì cứ khoảng ba giờ chiều là nước
dâng mênh mông, không thể cấy được. Mang thân đàn bà con gái luôn khổ hơn đám
đàn ông. Khi xuống ruộng, mấy ông chỉ đánh một cái quần cộc, tối về tắm chỉ cần
nhúng nước rồi vắt cái vèo phơi lên là xong. Còn phụ nữ thì khác, những chiếc
quần chéo đen từ miền Bắc đưa vào phân phối cho giới nữ lao động rất chi là đặc
biệt.
Cái thứ vải chi mà chỉ cần giặt một nước là phai màu,
khi lội ruộng, nước phèn ngấm vào nó trở nên mốc thếch. Thứ vải chéo* đó, chỉ cần
ngấm nước là nặng chịch, trời nắng phơi cả ngày chưa chắc khô chứ nói chi là trời
mưa? Bởi thế, khi đi làm chúng tôi thường mặc những chiếc quần còn ỉn ỉn - chưa
khô; lại thiếu xà bông giặt nên chuyện bốc mùi là chuyện bình thường. Thiệt khổ
hết biết!
*Vải
chéo đen: Loại vải thô nhuộm đen bán phân phối cho người lao động tay chân. Còn
người lao động trí óc thì được bán “quần xi áo lon” (những thứ vải nhẹ và tốt
hơn do Trung Quốc sản xuất). Hồi đó mỗi người lao động được bán phân phối vải mỗi
năm đủ may một bộ áo quần. Khi nào hợp tác xã nộp lúa nghĩa vụ vượt mới được
bán thưởng cho cả đội một khúc vải đủ may một cái quần chéo. Vì thế bà con thường
nói đùa chia nhau mỗi người mặc một ngày. Nhưng thường chúng tôi nhường cho người
nào nhà đông người lao động.
Rồi cũng đến lúc thu hoạch, việc gặt lúa ruộng sâu vất
vả hơn ruộng cạn nhiều. Cũng may ruộng ở đây mỗi năm chỉ làm được một vụ. Mỗi
lúc gặt hái xong là chúng tôi thở phào, mừng trút bớt một gánh nặng của năm
nay.
Mùa gặt vừa xong cũng là lúc thanh niên đi làm thuỷ lợi
Đồng Dương. Trên sông Vĩnh Định, từng đoàn thuyền chở thanh niên các xã của huyện
Hải Lăng cờ xí rợp trời, phèng la đánh inh ỏi đổ về Đồng Dương. Vì tôi thuộc loại
sợ đỉa ác chiến nên được đội phân công lo hậu cần. Với cái bếp là một hố đất nhỏ
vừa đặt được cái soong nấu khoảng 20 long gạo và một đống rơm luôn bị ướt vì trời
mưa. Mỗi ngày đêm tôi phải nhóm lửa, nước mắt chảy tèm lem để nấu khoảng năm bữa
ăn cho mấy chục người trong đội. Này nhé: Suất cơm đầu tiên trong ngày lúc nấu
lúc ba giờ sáng cho số thanh niên đi tát nước về ăn khuya. Nấu cơm xong, hôm
nào tôi cũng cầm đèn ra sau bếp soi cho mấy đứa mới về nhìn cho rõ mà bắt đỉa
bu vô người vì phải dầm chân dưới ruộng để tát nước. Sau đó tôi nấu tiếp suất
cơm thứ hai vào lúc sáu giờ sáng.
Mười một giờ nấu bữa trưa xong là lên thuyền để đưa
cơm ra tận công trường. Khoảng bốn giờ chiều lo cơm tối rồi tám giờ tối nấu bữa
cuối ngày cho số người đi trực đê ban đêm ăn. Có hôm nước lên mạnh quá khiến kè
đê bị vỡ, mọi người phải nhảy xuống dòng nước đang chảy xiết như thác đổ để giữ
đê. Hàng chục người cả nam lẫn nữ đứng sát vào nhau, tay siết chặt tay làm
thành một bức tường người mặc cho con nước hung hăng cuồn cuộn chảy. Trên bờ,
những người còn lại ra sức cuốc, gánh và đổ từng thúng đất xuống để ngăn dòng
nước. Trên khúc đê vừa được đắp cao, tiếng đờn, tiếng hát của đám văn nghệ
tuyên truyền thuộc phòng Văn hoá thông tin huyện cũng thi nhau hét Đôi bồ câu đang bay về hướng… Anh cùng em đi ra nơi công trường. Gió lộng
trời mây chim hót hoa đưa hương... vang trời. Lâu lâu chiếc loa phóng thanh
lại hô hào Hải Vĩnh đang là con chim đầu
đàn của huyện Hải Lăng ta, đã đắp được .... mét đê thuỷ lợi…, các xã khác cố
lên! cố lên!... Một lát, tiếng loa lại vang lên nhưng lần này là xã khác…
Kiểu "bắc loa" đó được gọi là động viên tinh thần để mọi người hồ hởi,
phấn khởi ra sức lập công trong lao động. Mà quả thật! Tự dưng nghe tiếng loa
thúc giục, tôi cũng thấy tim mình đập rầm rầm. Tiếng loa cũng làm cho không khí
công trường thuỷ lợi thêm phần rộn ràng, nhộn nhịp. Nhóm cuốc cho đất vào trạc
sắt; nhóm gánh đất lên đổ trên đê; nhóm đứng trên đê ngước đất để nện xuống cho
chặt, nhóm nầy toàn là nam giới. Đây là dịp để các anh chàng ga-lăng ra tay,
các chàng thấy cô nào ưng ý là luôn ngước sớm - nghĩa là cô gái gánh đất chưa tới
nơi chàng đã chạy vội đến ngước dùm một quãng. Các cô dù đôi khi bụng chẳng có
tình ý gì nhưng cũng chớp mắt cười duyên để hắn mở lòng bao tạ làm dùm cho đỡ mệt.
Ngoài việc lo bếp núc, có lúc tôi cũng đi theo nhóm lấy
đất cỏ về trồng cho những khúc đê mới để giữ đất. Việc trồng cỏ nầy đỡ tốn công
chăm sóc và cỏ cũng dễ sống hơn. Hai ba người cùng chèo thuyền đi thật xa để
tìm những thảm cỏ đan kín trên mặt đất, người muốn lấy đất cỏ phải cuốc thật
khéo để làm sao mảng đất khi được dỡ lên vẫn còn nguyên cỏ.
Chúng tôi nhẹ nhàng xếp chúng lên thuyền, khi đã đầy
thì chèo thuyền về trồng lên đê rồi lại đi tiếp. Công đoạn này không đơn giản
đâu nhé! Trồng cỏ phải có kỹ thuật và mang tính thẩm mỹ cao mới được ghi điểm
ngày công lao động cho từng mét đê thuỷ lợi đấy.
Ngoài thủy lợi Đồng Dương, tôi đã từng cùng mọi người
đi làm thuỷ lợi nhiều nơi như ở Hội Yên, Hải Ba, Lam Thuỷ, Thi Ông, Triệu Sơn,
… mà chẳng nơi nào dễ, dù rằng những cái khó ấy không hề giống nhau, nhưng nhờ
sức trẻ nên chúng tôi đã vượt qua tất cả. Và vào một ngày tôi tham gia công
trình thuỷ lợi Nam sông Thạch Hãn (đắp Trấm).
Thực hiện chủ trương Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất
nước trên con đường tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa, khi hơi xuân năm 1978 chưa tàn
thì công trình thủy lợi có tên là Trấm ở phía Nam sông Thạch Hãn khởi công. Thế
là thanh niên nam nữ của 3 tỉnh Thừa Thiên - Quảng Trị - Quảng Bình được điều động
về Trấm để xây dựng công trình. Trước tình hình đó, người già thì lo lắng đủ thứ
- nhất là con gái chưa chồng xa nhà trong điều kiện như thế; nhưng đám trẻ thì
vô tư khi nghe tên mình trong danh sách đi làm thủy lợi đắp Trấm, mãi đến khi rời
làng mới nghe lòng nao nao.
Mấy ngày trước khi lên Trấm, tôi và Liễu - nhỏ em cùng
xóm kém tôi hai tuổi - đã hì hục chặt một vác tre, ngồi chẻ và vót đến chảy máu
tay. Hai đứa định làm một cái giường đem theo lên Trấm để ngủ. Nhưng đến ngày
đi thì giường vẫn chưa làm xong mà nếu có xong thì làm sao hai đứa tôi vác đi bộ
từ nhà lên Trấm - một chặng đường trên hai chục cây số? Vậy là hai đứa đành
cõng hai chiếc ba lô trên lưng.
Chúng tôi ra đi, bỏ lại sau lưng ruộng vườn xanh ngát
với những bông lúa vừa trổ đòng đòng; bỏ lại cả nỗi nhớ thương và lo lắng của mẹ
già cùng những thanh tre làm giường ngỗn ngang sau hè nhà. Lên Trấm làm xong mọi
thủ tục trời đã tối thui, tôi đem cất những dụng cụ làm việc vào phía sau lán
trại. Lạ quá! Sao cứ một bước thấp lại một bước cao hụt chân suýt té thế nầy?
Tôi nhủ thầm Ở đây họ trồng khoai mà răng lại lên vôồng tròn tròn ri hè?
Đêm đầu tiên ở Trấm nhớ nhà quá tôi không sao ngủ được
dù chỗ nằm cũng khá êm: đó là một chiếc giường đơn nhỏ của anh Mỹ - ông xã của
tôi bây giờ. Thấy tôi lên, Mỹ nhường lại cái giường tre tự tay anh trau chuốt rất
đẹp cho tôi dùng riêng. Liễu vì không có giường nên phải ngủ chung với mấy đứa
khác, hắn buồn thiu.
Sáng sớm hôm sau, khi sương mù còn giăng kín tiếng kẻng
đã vang rền khắp các trại. Tôi thức dậy cùng mọi người ra sân của Đại đội Hải
Vĩnh để tập thể dục. Nhìn quanh, thấy có mấy người trùm kín mền từ đầu đến
chân. Nếu không biết mà bất ngờ gặp những cái mền phết đất ấy ngọ nguậy theo động
tác thể dục trong sương mờ, có lẽ tôi sẽ chết khiếp vì chúng cứ y như là hình
ma vẽ trong truyện tranh vậy. Có người vừa tập vừa ngoác mồm ngáp dài không dứt,
hai mắt thì nhắm trít lại trông thật buồn cười.
Trời ơi! Tập thể dục cho có sức khoẻ mà như thế nầy
thì hại sức khoẻ thêm thôi. Trời sáng dần, tôi đi vòng quanh lán trại để xem
mình đang ở chỗ nào vì từ nhỏ đến giờ tôi chưa hề đến nơi này. Thì ra đây là
bãi tha ma của vùng Như Lệ.
Ngoài các con vật thân mềm tôi cũng sợ ma không kém, vậy
mà tối qua tôi đã bước lên bước xuống trên các ngôi mộ quanh trại, còn nghĩ đó
là vồng khoai nữa chứ! Tôi sợ đến bủn rủn cả tay chân. Nơi đây là một nghĩa địa
lớn của vùng đất Quảng Trị gần La Vang. Phần đất lán trại chúng tôi ở được dựng
trên các ngôi mộ vừa được xe ủi đất san bằng, còn chung quanh vẫn đầy những nấm
mộ tròn tròn sát nhau chen lẫn với lau lách hoang vu. Thật là khiếp! Ngày nào
cũng thế, chúng tôi ăn sáng bằng một loại hạt có tên là bobo. Bobo có sức đàn hồi
như cao su vậy, ngâm từ đầu hôm để sáng đun nấu hết củi mà khi ăn vẫn nhai trệu
trạo vì nó không chịu mềm. Sau này nhiều đứa đau bao tử chắc cũng bởi di chứng
bobo. Bữa trưa có món đặc biệt hơn: A trưởng Lành xuống nhận phần ăn cho 10 đứa
là hai thau sắn với một nhúm muối sống nguyên hột nằm bên góc thau. Nhìn phần
ăn sau một buổi sáng gánh đá “thuỷ quân lục chiến” bọn tôi chỉ biết thở dài
đánh sượt.
(À!
Chúng tôi đặt tên loại đá xanh, rất rắn, cục nào cục nấy to tổ chảng là đá thủy
quân lục chiến đấy. Những người lính từng theo binh chủng nầy chắc cũng hãnh diện
(!)).
Thuỷ lấy chân đá thau sắn lăn tròn xuống gầm giường rồi
cả bọn lên giường đắp chăn nằm khóc, trong nước mắt chỉ nghe bập bệu mỗi hai tiếng
Mạ ơi! Khóc và ngủ cho quên cơn đói, khi nghe tiếng kẻng báo đã đến giờ làm mấy
đứa lại hè nhau lôi thau sắn dính cứng dưới giường ra, phủi phủi đất cát, mỗi đứa
cạy một miếng nhăn nhăn với hột muối cho có rồi đi làm ca chiều. Bữa cơm tối thịnh
soạn gồm một thau nhỏ lưng lửng cơm cho mỗi phần năm người ăn với thau canh gì
không biết, chỉ thấy trong nước đùng đục dài ngoằng một miếng dưa chua.
Nghe nói là canh nấu với cá lóc nên tôi nhịn luôn dù
không thấy miếng cá nào cả. Đặc biệt trên mỗi thau cơm có thêm năm lát mì nhỏ
được làm từ bột mì trắng, nhưng chúng tôi chưa hề được nếm vị ngon của lát mì
đó bao giờ. Lý do: bọn con trai cứ đi làm về là chạy qua bên lán nữ bốc hết những
lát mì nằm hớ hênh trên mỗi thau cơm xơi hết, chúng nó không cần điệu đàng kỳ cọ
rửa ráy tay chân như lũ con gái đâu.
Trong lán nam có mấy đứa con trai “trời đánh”. Không
hiểu sao mà chúng ác ơi là ác! Có lẽ vì cuộc sống lúc đó quá cực khổ nên chúng
cần xả stress? Hay tại nghịch ngợm và phá phách là bản chất? Bọn chúng cứ như
là dân đại ca vậy. Có sáng thức dậy bọn con gái bị mất hết quai nón nhung, có đứa
mất tấm nilong, … Thủ phạm là mấy cái bụng đói meo của bọn con trai, đêm qua
chúng lén lấy rồi đem đi đổi bánh bột lọc và bánh bèo hết rồi. Nhiều đêm đói mà
chẳng kiếm chác được gì, bụng rỗng khó ngủ bọn chúng lại bày trò. Mấy đứa
Hoàng, Bưởi, Thúc, Minh, Lãng, … diễn lại Mùa hè đỏ lửa trên Đại lộ kinh hoàng.
Tụi nó phân vai: đứa nào nhỏ làm con đeo cứng trên
lưng mẹ, giả giọng con nít kêu mạ ơi mạ ơi… nheo nhéo. Đứa nào mập mạp thì làm
mẹ vừa cõng con chạy vừa luôn miệng trả lời mạ đay, mạ đay…Mạ đang tìm coi cha
con rớt chỗ mô rồi… Mấy đứa khác lại giả bộ tật nguyền chống nạng; còng lưng
làm người già và cả làm con nít níu nhau chạy, khóc la inh ỏi. Chúng còn chia
làm hai phe đánh nhau rất hăng: đứa làm lính bắn đạn chíu chíu; đứa lái xe tăng
ầm ì bắn pháo ùng oàng; đứa dang tay làm máy bay liệng tới liệng lui thả bom miệng
ầm ầm; đứa đội nón tai bèo hô tấn công khản hơi; đứa vờ trúng đạn bị thương bò
la bò lết kêu van hay bị chết nằm vắt vẻo... Thôi thì chẳng thiếu cảnh nào.
Những âm thanh khốc liệt một thời được tái hiện thật sống
động nhưng cách diễn lại cố ý chọc cười. Diễn bên lán con trai riết ít khán giả
cũng chán, thế là chúng kéo qua luôn lán bên nữ để diễn tuồng khiến bọn con gái
cũng mất ngủ theo.
Có một buổi chiều vừa đi làm về, Hoàng liền chạy qua
nói với tôi “Đêm ni có chi xảy ra thì VP
cũng đừng sợ nghe chưa? Cứ ngủ đi, đừng mở mắt ra dòm làm chi” Hắn còn nói
thêm “Tụi tau bàn với nhau phải nói cho
mi biết, vì nếu mi sợ mà chết thiệt thì không ai đẻ kịp mà đền cho mụ Khoá mô”.
(Khóa không phải là tên mà là cách bà con trong làng gọi tránh tên tục, vì ngày
trước ba tôi có theo học chữ Nho). Nghe hắn nói, tôi không yên tâm chút nào nên
vặn vẹo hỏi mãi, cuối cùng Hoàng phải nói ra điều bí mật.
Thì ra, bọn hắn kiếm đâu được mấy khúc xương và chiếc
đầu lâu nên định bày trò. Kế hoạch của tụi hắn là tối nay sẽ bắt đom đóm lén thả
vào mùng của mấy đứa con gái sợ ma, chắc chắn mấy o ni sẽ tốc mùng mà chạy ra
ngoài và khi chạy sẽ đụng phải xương và đầu lâu chúng treo sẵn ở cửa ra vào.
Ôi thôi! Con gái sợ ma mà gặp thế thì chắc chắn là la
hét, kêu khóc rền trời. Khi đó các yêng hùng mới xuất hiện cứu mỹ nhơn trong tiếng
cười thỏa thích. Nghe kế hoạch thất đức của tụi hắn tôi tá hỏa tam tinh nhưng
cũng chẳng dám ho he, vì tụi hắn mà thù là khó sống. Tuy đã biết trước tối nay
lũ ác nhơn sẽ hù ma, nhưng khi liên tưởng tới xương và đầu lâu cùng đom đóm lập
lòe tôi vẫn nghe rờn rợn.
Tôi không dám bật mí mà tối đó chỉ khuyên mấy đứa con
gái nên túm lại ngủ chung với nhau một đêm dù chật chội, còn mấy cái giường trống
vẫn cứ giăng mùng rồi đặt mền gối như có người đang ngủ. Mấy đứa trong lán
không biết chuyện gì nhưng vẫn làm theo răm rắp, vì chúng rất tin tôi. Khoảng 9
giờ đêm, Lãng với chức vụ trưởng ban bảo vệ (người có quyền đi kiểm tra đột xuất
các lán) chạy vô lán nữ kêu “Có một cái
bóng áo quần trắng xóa, tóc dài phết đất vừa vô trại nữ, ai mô ở đó để ban bảo
vệ kiểm tra!” Rùng rùng sau Lãng là bọn con trai quái ác vừa chạy vừa la Bắt
con ma. Bắt con ma.
Đứa hô đứa “tranh thủ” thả đom đóm vào mùng, đứa treo
vội các vật hiếm lên cửa ra vào rồi dông tuốt ra ngoài, hí hửng ngồi chờ kết quả.
Bọn tôi ngó qua thấy bên giường của Huệ, Liễu và Niềm, Thuỷ đom đóm lập loè bay
đầy trong mùng, có con to đỏ lòm đến khiếp. Trên các cửa ra vào, ở khoảng lưng
chừng một cái đầu lâu trắng hếu đu đưa với mấy khúc xương dài ngắn đang tòn ten
trước gió thật dễ sợ. Bọn tôi rụt cổ và kéo chăn trùm kín mít. Một lúc thấy
không có động tĩnh gì, tụi nó quay lại để xem thử thì thấy cả lán nữ im re nên
đành thu dọn hiện vật rồi ra về tiu nghỉu như mèo bị cắt tai. Tuy thất vọng vì
kế hoạch phá hoại đã chuẩn bị chu đáo bất thành nhưng bọn chúng cũng chẳng có
lý do gì để trách tôi được.
Công việc nặng nhọc lại thiếu đói nên bất cứ lúc nào
trêu chọc được bọn con gái là bọn con trai ra tay liền. Hình như đó là liệu
pháp kích thích lòng vui sống của chúng vậy. Có lần thằng Minh bắt một con rết
to bự chảng, thằng Một thì quấn một con rắn đen thùi lùi còn ngo ngoe quanh cổ,
lâu lâu hắn thè lưỡi liếm vô mình con rắn một phát rối nuốt ực trông phát khiếp.
Hai thằng phát-xít cứ làm như vô tình lang thang qua lán nữ, đi tới đi lui, xáp
vô đứa ni xáp vô đứa tê làm bọn con gái chạy tơi tả còn hơn chạy giặc.
Tôi cũng rất sợ nhưng cố bình tĩnh nhẹ nhàng kéo Cúc lảng
dần ra ngoài cổng trại của đại đội rồi núp sau một chiếc xe Jeep bị hỏng. Tưởng
được yên thân, không ngờ mới được một lát thì Võ Công Diên và Hồng Lam cũng vác
đờn ra đó ngồi đờn hát. Hai đứa tôi ngó trốn không yên nên lò dò đứng dậy định
đi chỗ khác, ai dè Lam cười nói “Hai o tưởng
trốn ở đây là khỏi sợ à? Có ba người bị chết cháy trên xe đó!” Trời ơi!
Đúng là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa.
Một hôm vào giờ giải lao trên công trường, chúng tôi
đang ngồi nghỉ thì Bưởi tới hỏi “Trong mấy
đứa, đứa mô sợ rắn thì giơ tay lên!” Tôi thiệt thà giơ tay lên liền. Huệ,
Chủng, Lành ngó tôi nói “Mi nói sợ là hắn
chọc đó, phải nói không sợ”. Lam bước tới hỏi dồn “Còn đứa mô sợ nữa không?”. Ba đứa còn lại đều nói không sợ, không
sợ... Nghe thế Lam chỉ tay ra lệnh “VP
qua bên tê ngồi, để mấy đứa không sợ ngồi đây coi có sợ không cho biết”.
Tôi ngoan ngoãn làm theo, bò lên mặt đê thay vì ngồi ở
triền đê với mấy đứa bạn. Tôi sợ lắm, đụng vô con rắn chắc tôi chết ngất. Chờ
tôi đi rồi, Bưởi huýt sáo miệng một tiếng nghe thật du côn, Thúc ở đâu liền xuất
hiện với một con rắn rất to toàn thân vằn vện thấy ớn. Hắn đung đưa con rắn rồi
thình lình tung vào ba đứa con gái. Cả Chủng, Huệ, Lành cùng thét lên rồi lăn
tròn xuống lòng đê thuỷ lợi lởm chởm những đá nhọn hoắt.
Tôi hoảng hồn nhìn theo, dưới lòng đê cả ba đứa nằm
sóng soài, ba cái nón bài thơ mới tinh gãy gọng, con rắn cuộn chặt vào Chủng
làm nó hét váng trời. Thật là hãi hùng! Sau lần đó, đêm nào cũng nghe tiếng hét
của Chủng trong giấc ngủ. Có lẽ ám ảnh hôm đó đã trở thành những cơn ác mộng
hành hạ nó. Thật là tội nghiệp!
Mấy đứa con trai ác nhơn cứ tiếp tục hành lũ con gái
chúng tôi để giải khuây - dù chúng chẳng thù hằn hay ghét bỏ gì. Đến giờ tôi
cũng không hiểu sao chúng ác như thế? Sáng nào cũng vậy, bọn con trai quỷ quái
làm vệ sinh xong là đổ hết nước trong thùng. Số nước mà bọn con gái chúng tôi
phải vượt quãng đường xa lởm chởm đá mới gánh về được. Có khi nước gánh về gần
đến lán chợt bị vướng chân té nhào, thế là công cốc.
Trò chơi ác khiến ai cũng phải dậy sớm, nếu dậy trễ một
chút là không có nước để rửa mặt. Trong nhóm nữ, có 2 cô dành nhiều cảm tình
cho chàng Mỹ nên sáng nào cũng thi nhau dậy thật sớm lấy nước để dành trong lon
sữa guigô cho chàng rửa mặt. Mỹ biết ý mấy đứa mà cứ giả lơ và đem chia cho tôi
một lon nước. Thiếu ăn đã khổ, thiếu nước càng khổ hơn nên nước ở đây quý lắm.
Ai tình nghĩa lắm mới để dành một ít nước tặng nhau đấy.
Công việc đắp Trấm hàng ngày vẫn thế, từng tảng đá
xanh nổ tung lên cao ầm ầm bởi công suất của bộc phá; rồi cuốc, xúc, gánh và đổ.
Chúng tôi chạy đi chạy lại từ dưới lòng đê qua triền đê đầy đá sắc nhọn để lên
tới mặt đê thuỷ lợi. Tiếng hát “Con kênh
ta đào chưa có nước chảy qua. Chỉ có nắng mùa hè nóng bỏng. Mồ hôi muối lưng áo
em bạc trắng...” xuyên suốt một vùng đồi núi mênh mông như mang nỗi buồn tuổi
mới lớn của chúng tôi.
Một buổi sáng trong lúc chuẩn bị đi làm, Mỹ qua lán nữ
nói với tôi “Sáng ni tui đi tháo gỡ bom
mìn theo phân công của ban chỉ huy…”. Câu nói ngưng lại nửa chừng nhưng tôi
đọc được nỗi buồn và sự lo âu trong mắt anh. Tôi không nói gì được, chỉ lặng lẽ
gói cho anh một cái bánh mì và vài táng đường. Khi anh quay đi, tôi nhìn theo
mà lòng phấp phỏng vì việc làm ấy lành ít dữ nhiều. Cũng may lần đó Mỹ trở về
an toàn làm tôi mừng muốn khóc dù lúc ấy chúng tôi chưa là gì của nhau cả. Có lẽ
những chăm sóc nho nhỏ trong cuộc sống gian khổ đó đã kéo chúng tôi lại với
nhau.
Hồi đó, tuy khó khăn vậy nhưng riêng tôi vẫn dồi dào
thức ăn. Cứ mỗi lần có người lên Trấm là mạ tôi gởi cho tôi rất nhiều thức ăn
như khoai luộc, đường, bánh kẹo, …
Mạ còn gởi cả gạo để tôi đổi gạo lấy bánh mì, cứ một
long gạo là đổi được hai ổ mì để chống đói. Hồi đó bánh mì thuộc loại thực phẩm
cao cấp đó nghe. Nhưng số thực phẩm dự trữ của tôi thỉnh thoảng cũng bị... chia
phần. Chia cho các bạn đồng cảnh ngộ thì do tôi tự nguyện rồi nhưng… tôi bị
chia phần mới tức chứ. Không phải người đâu nghe, mà là các loại động vật nho
nhỏ quanh đây, có lẽ chúng cũng đói nên lặn lội tìm kiếm.
Chuột, gián thì chạy hà rầm khỏi nói rồi, tối nào nằm
ngủ tôi cũng chùm kín mền dù trời nóng hay lạnh vì cứ sợ chúng xơi nhằm chân
mình. Một lần đi làm về tối, tôi mò mẫm tìm cục đường đưa lên miệng cắn cho đỡ
mệt.
Chưa kịp nhai thì sao tóc đâu mà vướng vào miệng mình
quá chừng vậy nè? Tôi đưa tay phủi phủi mới phát hiện ra. Trời ạ! Không phải
tóc mà là lũ kiến đen - còn gọi là kiến hôi - chúng đang tranh nhau ăn vụng cục
đường tôi để dành, bây giờ tôi ăn chúng. Thế là tôi nôn thốc nôn tháo. Sau lần
đó rút kinh nghiệm xương máu, muốn ăn gì tôi phải vỗ vỗ kiểm tra trước khi đưa
vào miệng.
Song, tuổi thanh xuân thường biết tìm vui trong gian
khó, có như thế chúng tôi mới sống được chứ? Có những đêm khó ngủ chúng tôi lại
cùng nhau hò đối đáp, những câu hò đâm bắt tuỳ hứng đôi khi cũng vui đáo để và
khiến cho các đội khác có phần kiêng nể cái lán toàn con gái của Hợp I vốn nỗi
danh với câu hò “Ai về Hợp I mà coi. Con
gái Hợp I cầm roi dọi chồng”. Hi hi… chúng tôi còn chua thêm là … nếu chồng
cùng Hợp I thì không thèm sắm roi (!). Điều đó làm mấy anh chàng Hợp I nở mũi
nhưng cũng thắc mắc Tụi hắn nói không thèm sắm roi thì sắm cái chi hè???
Chuyện dài của ngày ấy càng nhớ lại càng ngậm ngùi.
Thương cho mình một thời mới lớn đã phải chịu quá nhiều thiệt thòi, gian khổ.
Hai năm sau, gia đình tổ chức đám cưới cho anh Mỹ và tôi. Rồi tôi cùng gia đình
chồng dắt díu nhau đi tìm miền đất mới, bỏ lại sau lưng một miền quê đầy nhớ
thương và gian khổ. Đất phương Nam mênh mông đãi người khách lạ. Cũng như bao
người dân Quảng Trị bỏ xứ mà đi thuở ấy, gia đình tôi đã chọn được đất lành để
an cư lạc nghiệp.
Dù cũng phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có cái ăn, cái
để nhưng đời sống của chúng tôi dễ thở hơn. Gia đình tôi sống bằng nghề nương rẫy
nên tôi thoát khỏi nạn sợ đỉa. Ngày làm việc vất vả thì ban đêm chúng tôi ngủ
thẳng giấc, không phải dự những buổi họp hành dài lê thê đến khi gà gáy nữa. Còn khi trời mưa hay nghe người thấm mệt là chúng tôi
có quyền ở nhà nghỉ ngơi hay đi thăm bà con đâu đó. Chúng tôi cũng không phải
ăn cắp vật phẩm do mình làm ra và khi ăn ngon cũng không phải lo sợ, dấu diếm...
Một thời gian sau, khi cuộc sống nơi vùng đất mới đi vào nề nếp, vợ chồng tôi
đã tiếp tục học để lấy các bằng cấp cần thiết và đổi nghề. Bây giờ chúng tôi đã
trở thành những giáo viên được học trò cũng như phụ huynh các em quý mến.
Ba mươi năm nhìn lại, nghĩ đến buổi thiên cư ngày ấy
mà không khỏi giật mình nhưng cũng đầy tự hào. Chỉ là đi tìm miền đất sống mà
những người dân lương thiện đã bỏ hết mà đi như trốn chạy. Nhà cửa, đất vườn và
cả những sản phẩm làm ra đều để lại y nguyên để tránh sự phát hiện của chính
quyền địa phương. Rồi một sáng mù sương, chúng tôi lặng lẽ rời làng như những
chiếc bóng. Sau mấy ngày lây lất từ bến tàu nầy đến bến xe kia, cuộc hành trình
trên những chuyến tàu, xe chật như nêm đã đưa những con người mệt mỏi đến một
vùng đất hoang hoá lâu ngày đầy cây lùm và lau lách. Rồi đúng là “Bàn tay
ta làm nên tất cả. Với sức người sỏi đá cũng thành cơm”. Vùng đất hoang
ngày ấy bây giờ đã thành một miền quê trù phú quanh năm nước ngọt trái lành. Tự
hào lắm thay! Tự hào rằng mình đã can đảm dứt áo ra đi để tìm tương lai cho con
cháu. Tự hào rằng mình đã vượt qua bao gian nan thử thách của cuộc đời để sống
cho đến ngày nay mà lương tâm không hề hổ thẹn.
Ba mươi năm đã trôi qua, những đứa con vợ chồng tôi
sinh ra từ mảnh đất phương Nam nầy giờ đã khôn lớn, đã được học hành đến nơi đến
chốn. Chúng đã vào đại học bằng con đường thẳng tắp chứ không phải khựng lại vì
hai chữ lý lịch như cha mẹ của chúng ngày nào. Xin cảm ơn miền đất phương Nam
đã như người mẹ hiền dang tay đón nhận chúng tôi. Mai đây, nơi này sẽ trở thành
quê hương của lớp con cháu đời sau. Cả chúng tôi, một ngày nào đó khi trở về
cùng cát bụi cũng xin gởi nắm xương tàn vào lòng đất bao dung nầy. Còn Quảng Trị
chỉ còn là cội nguồn ghi trong gia phả. Nhưng quê hương ơi! Cho dù miền đất đó
đã một thời ghi dấu trong tôi nhiều kỷ niệm ngậm ngùi nhưng sao trong lòng cứ
mãi nhớ thương, thương nhớ. Tình hoài hương cứ vấn vương theo ngày tháng tha
phương… Thỉnh thoảng tôi kể cho các con tôi nghe chuyện quê hương, chuyện của
cha mẹ một thời mới lớn. Chúng cứ ngẩn người như nghe chuyện ngày xưa vậy.
Ừ! Mà đúng là chuyện ngày xưa. Xưa lắm rồi…
Nguyễn Thị Vĩnh Phước
Cuối hạ 2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét