BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 18 tháng 3, 2019

NỖI NIỀM NGƯỜI “ĐÁNH” TRANH, DI DÂN QUẢNG TRỊ SAU 1975 - Đinh Hoa Lư


        
                         Tác giả Đinh Hoa Lư


 NỖI NIỀM NGƯỜI ĐÁNH TRANHDI DÂN QUẢNG TRỊ 
                                                                                     Đinh Hoa Lư

Xưa Công chúa Huyền Trân hi sinh thân ngọc để đổi hai châu Ô và Rý cho người Quảng Trị hiện nay thì từ cái năm máu lửa 1972 con cháu người Quảng Trị lại tiến sâu hơn nữa. Bình Tuy những mật khu, những rừng gỗ quý ken dày, sức người làm không xuể, biển cả đầy ắp cá đang chờ sức người Quảng Trị vào khai hoang lập ấp:

“Gánh cực mà đổ lên non
Còng lưng mà chạy cực còn chạy theo”

1975 hòa bình rồi, thống nhất rồi; thế mà người di dân Quảng Trị vẫn không thoát khỏi cái “số cực”. Rừng đốn hết, nào củi, nào than, tất cả cho cái bao tử. “Miệng ăn núi lở”, thế là ba cái rẫy bạc màu lần hồi không còn lợi tức! Miệng ăn càng sinh sôi, nảy nở càng đông, rừng đốt làm than dần hồi cũng hết. Thế là vài năm sau 1975 lại tiếp tục di dân theo kiểu đi “kinh tế mới” vào tận miền nam lục tỉnh Bạc Liêu, Rạch Giá, Long Xuyên, Cần Thơ nhất là Bạc Liêu. Nhưng đâu có yên, bà con Quảng Trị sống không quen kiểu “ướt át vùng sông nước” như dân lục tỉnh, nên cũng lại phải tứ tán lần nữa? Rõ ràng, số khổ nó vẫn theo bước chân “giang hồ” người dân xứ Quảng?

Ai nói hai chữ “cu ly” chỉ trong lịch sử thời Pháp thuộc? hết gạo, cạn cơm người Quảng Trị tại tỉnh Bình Tuy (Hàm Tân, Đức Linh) chen nhau tìm đến các nông trường cao su Long Khánh - Bà Rịa- Biên Hoà sau này còn gọi cái tên mới là tỉnh Đồng Nai ào ào xin vào các đội nông không biết bao nhiêu mà kể. Các đồn điền cao su tại Long Khánh, vài nơi gần Long Thành hay Bà Rịa đi đâu cũng nghe giọng Quảng Trị “đặc sệt”. Quảng Trị đời “bọ mẹ” di dân, đẻ ra đời con, rồi cháu cùng ở một nhà. Người Quảng Trị tiếng Quảng Trị nghe quen tai từ Bà Tô đến Bình Giã hay từ các nông trường Cụ Bị, Xà Bang đến giáp Đức Linh. Những mái tranh trong những vùng đất rẩy Bình Tuy, cũng như dưới những dãy nhà tranh xây dựng quy cũ, ngay hàng thẳng lối trong nông trường phần đông đều là những thế hệ Quảng Trị, già và trẻ ngày ngày nương nhau mà sống.

       
                       Nhà tranh vách đất của người khá giả

        
             Nhà tranh vách đất thường thấy ở nông thôn Việt Nam

        
                                Nhà tranh vách đất của dân nghèo

       
                             Nhà tranh vách đất của dân nghèo

Chạy giặc, di dân lập ấp, rừng rú biển cả, tiếp đến là những liếp rừng cao su bạt ngàn xa ngót tầm mắt miền đất đỏ Long Khánh trong Nam để chan hòa máu và mồ hôi bao nhiêu thế hệ Quảng Trị quê mình.
Kiếp “cu ly” nông trường, đổi mồ hôi kiếm gạo tiêu chuẩn: nơi này đội trưởng nông trường quyền thế “như vua”. Gạo cơm, phân bón, tiền bạc lương hướng, cắt công, khai công trong tay đội trưởng. Trên đội trưởng là trưởng nông trường. Tất cả đều có đời sống dư dật giàu sang, chỉ có người “cu li” trực tiếp lao động là khổ. Nhưng cái thời này, gạo quý “như vàng” người Quảng Trị dám đi đâu để mất tiêu chuẩn. Vài ba năm đầu, cao su chưa cao, “cu li” nông trường còn có đôi chút an ủi nhờ trồng chen vào giữa những luống cao su nào đậu nào bắp, nhất là lúa “vại” tức khác với lúa cấy chỉ mọc đất khô. Nông trường cũng chẳng gây khó khăn chi vì trồng chen ở giữa thì cao su khỏi bị cỏ hãm cũng hay. Một công hai việc cho người “cu li”. Người Quảng Trị lại “vàn công” nhau, thu hoạch mùa màng giữa những luống cao su. Thời này ngó vậy mà vui, vừa có gạo vừa có thêm tiền.


    
                                         Cây cỏ tranh
                    
Khác với những kẻ ra đi, ra đi đây là ra đi đợt hai, đợt ba sau khi di dân vào Nam rồi. Người ở lại Bình Tuy, nhất là ở huyện Hàm Tân lại càng thiếu thốn hơn. Những đồi cát bạc màu sát biển, lúa bắp không còn lên nổi. Những nương rẫy, trồng lên bới xuống nhiều lần, đến nỗi tranh cũng khó mọc lên cao.
Ôi! những buổi cắt tranh sao quá gian nan chán nản. Cái thuở được phát tồn lợp nhà và tiêu chuẩn gạo di dân LẬP ẤP 1973 -74 đã nằm trong quá khứ. Người bứt tranh đứng nhìn những đồi hoang hóa, tranh cao không quá đầu gối, chỏng cọng ngao ngán trong lòng. Tranh tốt thì người bứt không biết mệt. Tranh xấu vừa làm vừa chạy quanh. Bứt tranh là tiếng cũ, có thể gọi là cắt tranh hay cắt “gianh” theo tiếng Bắc. Tiếng gì thì tiếng, tranh dài ngọn là điều mừng rỡ nhất để về lợp mái tranh nghèo đang thời giột nát, hay lợp nhà mới nếu không có tiền mua. Nhưng tiền đâu, nếu hai bàn tay chỉ biết cầm cuốc, liềm, rựa?
Người bứt tranh (cắt tranh) giỏi, ngoài kiếm được cái nghề chuyên nghiệp làm tranh, đánh tranh bán độ nhật, còn có thêm biệt hiệu. Dân Quảng Trị ngang đây thấy hơi giống dân nam: chú Hùng nghề bứt tranh xóm ba mạ tôi ở, thì gọi cái tên Hùng Tranh. Tội nghiệp giờ đây chú đã ra người thiên cổ. Nghề bứt tranh cũng chung số phận đó là NGHÈO; “có đồng nào xào đồng đó” làm gì để dành được?
Thời thế đổi dời. Thiên hạ “đổi mới” trong khi xã hội toàn nhà xây, nghề bứt tranh cũng đi vào lịch sử thế là chú Hùng ngày ngày, thân bệnh hoạn, ngồi ngó ra con đường kiệt xem “xe nổ” chạy đầy đường. Có thể Chú ngồi nhớ lại những ngày bứt tranh khấm khá: “cái nào ngàn đó” có khi tranh “hút” lên giá 1.200. Thím Hùng ngày đó “le te” đi chợ Cam Bình mua đồ bổ, ngon cho chú “bồi dưỡng”; giờ còn đâu?
Hãy để cho Chú Hùng và hình ảnh những cái tranh, đánh dày, đánh mỏng, dài ngắn; hay những gánh tranh người nông phu lúp xúp gánh về tận chợ tỉnh La Gi vẫn đắt hàng, đi vào “lịch sử” của di dân Quảng Trị một thời.


       
                        Những tấm tranh lợp nhà vừa “đánh” xong

Lớp cháu con đâu nghĩ ra hình ảnh những cái rẫy tranh khi bị cháy ra sao? Ai ác bỏ tàn thuốc, hay cố ý đốt. Những liếp tranh đã cắt, chờ khô gánh về lợp nhà nay ra tro bụi. Những mái nhà đang cần tranh lợp mới ra sao? Những nuộc lạt đang ngâm nước, chờ tranh hất lên mái nhà, đòn tay con thơm mùi gỗ rừng, giờ xem như bị đình lại vì tranh đã bị cháy sạch?

Rẫy rừng và những mái nhà tranh tưởng chừng là “điệp khúc bất tận” cho kiếp người dân lưu xứ Quảng trị quê mình. Nếu có ai có “cái tâm” ghi lại thì quả là hình ảnh bi tráng cho người Quảng Trị quê ta đi mãi với kiếp lưu dân. Thật khổ làm sao?

                                                                                    Đinh Hoa Lư

Không có nhận xét nào: