Tác giả Đinh Hoa Lư
NỖI NIỀM NGƯỜI “ĐÁNH TRANH”, DI DÂN QUẢNG TRỊ
Đinh Hoa Lư
Xưa Công chúa Huyền Trân hi sinh thân ngọc để đổi hai
châu Ô và Rý cho người Quảng Trị hiện nay thì từ cái năm máu lửa 1972 con cháu
người Quảng Trị lại tiến sâu hơn nữa. Bình Tuy những mật khu, những rừng gỗ quý
ken dày, sức người làm không xuể, biển cả đầy ắp cá đang chờ sức người Quảng Trị
vào khai hoang lập ấp:
“Gánh
cực mà đổ lên non
Còng
lưng mà chạy cực còn chạy theo”
1975 hòa bình rồi, thống nhất rồi; thế mà người di dân
Quảng Trị vẫn không thoát khỏi cái “số cực”. Rừng đốn hết, nào củi, nào than, tất
cả cho cái bao tử. “Miệng ăn núi lở”, thế là ba cái rẫy bạc màu lần hồi không
còn lợi tức! Miệng ăn càng sinh sôi, nảy nở càng đông, rừng đốt làm than dần hồi
cũng hết. Thế là vài năm sau 1975 lại tiếp tục di dân theo kiểu đi “kinh tế mới”
vào tận miền nam lục tỉnh Bạc Liêu, Rạch Giá, Long Xuyên, Cần Thơ nhất là Bạc
Liêu. Nhưng đâu có yên, bà con Quảng Trị sống không quen kiểu “ướt át vùng sông
nước” như dân lục tỉnh, nên cũng lại phải tứ tán lần nữa? Rõ ràng, số khổ nó vẫn
theo bước chân “giang hồ” người dân xứ Quảng?
Nhà
tranh vách đất của người khá giả
Nhà tranh vách đất thường thấy ở nông thôn Việt Nam
Nhà tranh vách đất của dân nghèo
Chạy giặc, di dân lập ấp, rừng rú biển cả, tiếp đến là những liếp rừng cao su bạt ngàn xa ngót tầm mắt miền đất đỏ Long Khánh trong Nam để chan hòa máu và mồ hôi bao nhiêu thế hệ Quảng Trị quê mình.
Nhà tranh vách đất của dân nghèo
Chạy giặc, di dân lập ấp, rừng rú biển cả, tiếp đến là những liếp rừng cao su bạt ngàn xa ngót tầm mắt miền đất đỏ Long Khánh trong Nam để chan hòa máu và mồ hôi bao nhiêu thế hệ Quảng Trị quê mình.
Kiếp “cu ly” nông trường, đổi mồ hôi kiếm gạo tiêu chuẩn:
nơi này đội trưởng nông trường quyền thế “như vua”. Gạo cơm, phân bón, tiền bạc
lương hướng, cắt công, khai công trong tay đội trưởng. Trên đội trưởng là trưởng
nông trường. Tất cả đều có đời sống dư dật giàu sang, chỉ có người “cu li” trực
tiếp lao động là khổ. Nhưng cái thời này, gạo quý “như vàng” người Quảng Trị
dám đi đâu để mất tiêu chuẩn. Vài ba năm đầu, cao su chưa cao, “cu li” nông trường
còn có đôi chút an ủi nhờ trồng chen vào giữa những luống cao su nào đậu nào bắp,
nhất là lúa “vại” tức khác với lúa cấy chỉ mọc đất khô. Nông trường cũng chẳng
gây khó khăn chi vì trồng chen ở giữa thì cao su khỏi bị cỏ hãm cũng hay. Một
công hai việc cho người “cu li”. Người Quảng Trị lại “vàn công” nhau, thu hoạch
mùa màng giữa những luống cao su. Thời này ngó vậy mà vui, vừa có gạo vừa có
thêm tiền.
Cây cỏ tranh
Khác với những kẻ ra đi, ra đi đây là ra đi đợt hai, đợt
ba sau khi di dân vào Nam rồi. Người ở lại Bình Tuy, nhất là ở huyện Hàm Tân lại
càng thiếu thốn hơn. Những đồi cát bạc màu sát biển, lúa bắp không còn lên nổi.
Những nương rẫy, trồng lên bới xuống nhiều lần, đến nỗi tranh cũng khó mọc lên
cao.
Ôi! những buổi cắt tranh sao quá gian nan chán nản.
Cái thuở được phát tồn lợp nhà và tiêu chuẩn gạo di dân LẬP ẤP 1973 -74 đã nằm
trong quá khứ. Người bứt tranh đứng nhìn những đồi hoang hóa, tranh cao không
quá đầu gối, chỏng cọng ngao ngán trong lòng. Tranh tốt thì người bứt không biết
mệt. Tranh xấu vừa làm vừa chạy quanh. Bứt tranh là tiếng cũ, có thể gọi là cắt
tranh hay cắt “gianh” theo tiếng Bắc. Tiếng gì thì tiếng, tranh dài ngọn là điều
mừng rỡ nhất để về lợp mái tranh nghèo đang thời giột nát, hay lợp nhà mới nếu
không có tiền mua. Nhưng tiền đâu, nếu hai bàn tay chỉ biết cầm cuốc, liềm, rựa?
Người bứt tranh (cắt tranh) giỏi, ngoài kiếm được cái
nghề chuyên nghiệp làm tranh, đánh tranh bán độ nhật, còn có thêm biệt hiệu.
Dân Quảng Trị ngang đây thấy hơi giống dân nam: chú Hùng nghề bứt tranh xóm ba
mạ tôi ở, thì gọi cái tên Hùng Tranh. Tội nghiệp giờ đây chú đã ra người thiên
cổ. Nghề bứt tranh cũng chung số phận đó là NGHÈO; “có đồng nào xào đồng đó”
làm gì để dành được?
Thời thế đổi dời. Thiên hạ “đổi mới” trong khi xã hội
toàn nhà xây, nghề bứt tranh cũng đi vào “lịch sử” thế là chú Hùng ngày ngày,
thân bệnh hoạn, ngồi ngó ra con đường kiệt xem “xe nổ” chạy đầy đường. Có thể
Chú ngồi nhớ lại những ngày bứt tranh khấm khá: “cái nào ngàn đó” có khi tranh “hút”
lên giá 1.200. Thím Hùng ngày đó “le te” đi chợ Cam Bình mua đồ bổ, ngon cho
chú “bồi dưỡng”; giờ còn đâu?
Hãy để cho Chú Hùng và hình ảnh những cái tranh, đánh
dày, đánh mỏng, dài ngắn; hay những gánh tranh người nông phu lúp xúp gánh về tận
chợ tỉnh La Gi vẫn đắt hàng, đi vào “lịch sử” của di dân Quảng Trị một thời.
Những tấm tranh lợp nhà vừa “đánh”
xong
Lớp cháu con đâu nghĩ ra hình ảnh những cái rẫy tranh
khi bị cháy ra sao? Ai ác bỏ tàn thuốc, hay cố ý đốt. Những liếp tranh đã cắt,
chờ khô gánh về lợp nhà nay ra tro bụi. Những mái nhà đang cần tranh lợp mới ra
sao? Những nuộc lạt đang ngâm nước, chờ tranh hất lên mái nhà, đòn tay con thơm
mùi gỗ rừng, giờ xem như bị đình lại vì tranh đã bị cháy sạch?
Rẫy rừng và những mái nhà tranh tưởng chừng là “điệp
khúc bất tận” cho kiếp người dân lưu xứ Quảng trị quê mình. Nếu có ai có “cái tâm” ghi lại thì quả là hình ảnh bi tráng cho người Quảng Trị quê ta đi mãi với
kiếp lưu dân. Thật khổ làm sao?
Đinh Hoa Lư
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét