Ảnh: Trịnh Thanh Nhã - Thanh Sơn.
Trong văn học Việt Nam có một người phụ nữ Hà Nội đã để
lại vóc dáng đài các đã mấy trăm năm. Người phụ nữ tài hoa ấy, đứng trước thiên
nhiên đất nước đã nói tâm tình của một con người cô đơn nhỏ bé trước vũ trụ,
nhưng dường như đã cố giấu đi cả tên tuổi của mình. Mặc dù tên của bà có ý
nghĩa là mùi hương thơm nức, nhưng bà vẫn cố giấu đi, ngay cả tên gọi của mình.
Người ta cũng không gọi bà bằng tên gọi của chồng bà như những phụ nữ khác. Người
ta chỉ gọi bà bằng cái chức vụ của chồng bà mà thôi. Đó là Bà Huyện Thanh Quan.
Tên thật của bà là Nguyễn Thị Hinh. Hinh 馨
chữ Hán có nghĩa là hương thơm ngào ngạt.
Văn chương cổ Việt Nam không có nhiều nữ thi sĩ. Nhưng
đặc biệt nhất là có tới hai nữ thi sĩ tên Hương. Một Hồ Xuân Hương ngang tàng,
phóng túng. Một Nguyễn Thị Hinh (Hương) đài các, phong lưu.
Hai nữ thi sĩ tên Hương ấy đã đi vào lịch sử văn
chương Việt Nam với hai phong cách khác nhau. Và sức lan tỏa của những câu thơ
của hai bà đã làm lay động bao thế hệ người đọc Việt Nam. Thơ Hồ Xuân Hương là
thơ của một người phụ nữ ngang tàng, nhìn sự vật trong sự biến động và biến
chuyển với góc nhìn đầy cá tính. Mỗi sự vật hiện lên trong thơ bà là đều ẩn chứa
trong đó khát vọng mạnh mẽ về nữ quyền và về những khát vọng của tình yêu và cả
tình dục nữa.
Chân dung Hồ Xuân Hương được vẽ với “yếm đào trễ xuống dưới nương long”, với
khuôn mặt tươi tắn, đầy khát vọng và cả chút nhục cảm nữa! Còn Bà Huyện Thanh
Quan, một nữ sĩ tên “Hương” khác thì hoàn toàn khác. Bà mang khuôn mặt đầy đặn
với nét môi cắn chỉ đoan trang, kiêu sa và kiểu cách của một phụ nữ đài các.
Hiện chưa biết về năm sinh và năm mất của Bà huyện
Thanh Quan. Ta chỉ biết bà sinh ra ở làng hoa Nghi Tàm bên bờ Hồ Tây. Rằng bà
là người hay thơ, giỏi Nôm. Chồng bà là Lưu Nguyên Ôn, người làng Nguyệt Áng,
huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, đỗ Cử nhân năm 1828, từng làm Tri huyện Thanh
Quan sau can án bị giáng chức làm việc ở bộ Hình trong kinh đô Huế. Ông huyện
Thanh Quan chẳng may mất sớm, khi mới 43 tuổi, bà vẫn ở vậy nuôi con.
Nhắc đến bà huyện Thanh Quan không ai là không nhớ đến
chuyện xảy ra lúc chồng bà là Tri huyện Thanh Quan, nhân khi chồng đi vắng, bà
nhận được đơn của một thiếu phụ trong huyện xin được đi lấy chồng, thương hoàn
cảnh của chị ta, bà đã phê vào tờ đơn bằng mấy câu thơ:
Phó
cho con Nguyễn Thị Đào
Nước
trong leo lẻo cắm sào đợi ai
Chữ
rằng “xuân bất tái lai”
Cho
về kiếm chút kẻo mai nữa già!
Câu chuyện bà huyện thay chồng phê đơn là một giai thoại
văn học rất đẹp. Nó gợi cho ta hình ảnh một bà huyện tự tin và hóm hỉnh. Bà huyện
cũng là một phụ nữ nên bà biết thương cái xuân thì của người thiếu phụ. Không
biết cô Nguyễn Thị Đào đi lấy chồng, sinh con đẻ cái có đem nhau về chơi với Bà
Huyện hay không? Nhưng câu chuyện cũng gợi cho đời sau tưởng tượng ra cảnh nhà
bà huyện đầm ấm vui vẻ, vợ chồng cùng thưởng trà dưới nguyệt hay ngâm vịnh xem
hoa vô cùng tao nhã và tâm đắc.
Đời vua Minh Mạng, bà được vời vào cung trao cho chức
Cung trung giáo tập, dạy dỗ cho các cung phi và công chúa. Điều này xác nhận với
chúng ta rằng bà Huyện Thanh Quan là một phụ nữ có đầy đủ “công, dung, ngôn, hạnh”
theo đúng chuẩn mực xưa, nên đã được triều đình biết tiếng, được một vị vua
sáng là Minh Mạng vời vào cung và giao cho trọng trách này!
Con đường thiên lý Bắc Nam ấy đã từng lưu dấu chân của
nữ sĩ tài hoa mà cả trăm năm nay, khách bộ hành, xe kiệu đi qua Đèo Ngang còn
thấy dáng hình người phụ nữ lồng lộng và đơn côi trên đỉnh đèo trong một hoàng
hôn lữ thứ.
Bước
tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ
cây chen đá lá chen hoa
Lom
khom dưới núi tiều vài chú
Lác
đác bên sông rợ mấy nhà
Nhớ
nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương
nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng
chân đứng lại trời – non – nước
Một
mảnh tình riêng ta với ta.
Bài thơ thật buồn. Hình ảnh Đèo Ngang được vẽ bằng mấy
nét tiêu sơ, gợi nên cả cái hoang mang của lữ khách. Xa xôi trong đó là một tâm
sự về nước non nhà với niềm đau, niềm nhớ niềm thương! Bà huyện đã dừng lại giữa
đỉnh đèo giữa trời mây non nước bao la, và nỗi cô đơn xâm chiếm tâm hồn bậc tài
nữ trong mấy chữ “ta với ta”. Bà đã đứng khựng lại giữa đỉnh đèo mấy trăm năm
nay, bóng hình in vào nền trời Đèo Ngang lộng gió, gửi đến hậu thế muôn sau tâm
sự của bà.
Có lẽ mối duyên với ông huyện Thanh Quan để lại trong
bà huyện những dư vị ngọt lành của tình phu phụ, “tương kính như tân” nên thơ của
bà huyện là thứ thơ cao sang, đài các và đẹp một vẻ đẹp điển nhã của thi ca cổ.
Bà Huyện Thanh Quan để lại 7 bài thơ. Bài thơ nào cũng
đài các, sang trọng. Bài thơ nào cũng hoài cổ, luyến nhớ. Nhưng bà nhớ nhất là
nhớ nhà, nhớ quê. Trông cảnh chiều thu bà nhớ ngẩn ngơ trong bâng khuâng hoài
niệm. Mỗi bước bà đi là lại “lòng quê một
bước nhường ngao ngán/ Mấy kẻ tình chung có thấu là!”.
Bảy bài thơ của Bà Huyện là bảy bài thơ Nôm, đều là
thơ thất ngôn bát cú mỗi bài tám câu, mỗi câu 7 chữ. Nghiêm ngắn, trang trọng.
Mỗi bài là một bức tranh thủy mặc được vẽ lên như những bức tứ bình đẹp. Mỗi bức
tranh ấy gói ghém tâm trạng của bà. Buồn mà không bi lụy. Có cả những tâm sự
hoài cổ của một phụ nữ trước cảnh dâu bể với những hành cung miếu điện của những
triều vua đã đi qua. Và hơn hết là cái nhìn đầy thương mến với những cảnh vật
tiêu sơ, nơi đèo heo hút gió, những ngư ông và bác tiều phu, những mục đồng lùa
trâu về những thôn xa vắng.
Bà Huyện Thanh Quan tên là Hinh, với nghĩa là mùi
hương ngào ngạt. Bà không mang tên chồng mà chỉ mang tên chức vụ của chồng. Chức
vụ ấy trong đời làm quan của chồng bà cũng rất ngắn ngủi. Bà cũng chỉ để lại
cho đời ngót chục bài thơ Đường luật Nôm vuông chằn chặn. Vậy mà vẻ cao sang
đài các, kiêu sa từ từng con chữ trong những bài thơ đều mỗi bài 56 chữ ấy đã
lan tỏa khắp thi đàn nước Việt trải đã mấy trăm năm.
Tình nước non non nước của người phụ nữ ấy như đã hòa
cùng con cuốc cuốc, cái gia gia trong thơ bà cứ da diết, da diết vọng đến hôm
nay và muôn sau.
Có thi sĩ đã từng viết về một loài hoa có những “bông hoa nhỏ giấu mình trong cỏ; thơm hết
mình mà chẳng thấy hoa đâu”. Phải chăng bông hoa ấy là bà Huyện Thanh Quan
hương thơm ngát thi đàn nước Việt mà lai lịch hành trạng thì còn đang đánh đố hậu
thế.
Ai có dịp qua Đèo Ngang, hãy ngước nhìn đỉnh đèo non
nước trời mây bao la, trên đó là một tượng đài bà Huyện Thanh Quan lồng lộng ở
mãi với thời gian…
Nguyễn Xuân Diện
1 nhận xét:
CÁM ƠN TS NGUYỄN XUÂN DIỆN!
CÓ CHÚT BĂN KHOĂN: CÂU THƠ TÁ GIẢ TRÍCH:
LÁC ĐÁC ...RỢ MẤY NHÀ.
BẢN CHỤP LẠI GHI LÀ ...CHỢ MẤY NHÀ.
CÁC HỌC GIẢ ĐÃ TỪNG TRANH LUẬN RẰNG "CHỢ" HAY "RỢ" ĐÚNG VỚI BẢN GỐC CỦA BÀ HUYỆN THANH QUAN!
CẢM PHIỀN ANH CĂN CỨ VĂN BẢN TIN CẬY ĐỂ LÀM RÕ "RỢ" HAY "CHỢ" LÀ ĐÚNG!
Đăng nhận xét