Tác giả Hoàng Long Hải
CHẦN
CHẦN ƠI HỠI CHẦN CHẦN
(Tặng
Trần Quốc Phiệt, “người Chợ Cạn” - Tác giả)
“Chần
chần ơi hỡi chần chần,
Ham
ăn bỏ việc không mần mạ la”
(Ca dao)
Ốc chần chần
nhỏ bằng hột nút áo, dẹp, xoắn ốc theo chiều kim đồng hồ. Tất cả đều xoắn theo
một chiều đó mà thôi, cả triệu con chưa chắc đã có con ốc nào có đường xoắn ngược
lại. Tỷ lệ đường xoắn rất đều, từ trung tâm mà ra, ở tâm thì nhỏ, to ra dần dần.
Nếu dùng thước mà đo - có lẽ cũng khó đo lắm - hay như bây giờ, dùng computer
mà đo, tỷ lệ trong nhỏ ngoài to không xê xích chút nào. Đó là sự nhiệm mầu của
Tạo Hóa.
Ốc chần chần thường màu trắng, có những đường
viền theo hình xoán ốc màu đỏ nhạt, kèm theo là những đường xanh nhạt; trông
cũng không đẹp lắm, nhưng cũng không xấu. Mùa hè - chỉ mùa hè mà thôi - người
miệt biển gánh lên thị xã Quảng Trị bán chần chần nhiều lắm. Ốc chần chần đã nấu
chín, đựng trong thúng cạn, đong bằng cái chén nhỏ, hay bằng cái “loon” sắt, không bán chung với nước như
hến hay chắt chắt. Thường người bán cho thêm mấy cái gai cây bưởi. Dùng gai đó
để lể, tức là móc con chần chần từ trong vỏ ốc ra.
Ăn chần
chần không cần thêm nước chấm - nước mắm pha ớt, gừng chẳng hạn, luộc bằng nước
biển hay vì con chần chần ở biển, đã mặn sẵn. Cái gai bưởi dùng nhiều lần bị
cùn, không móc được nữa, thì dùng “kim
găm”, - có nơi gọi là “kim băng”,
mấy cô bà thường dùng găm ngang túi áo, để đồ đạc trong túi khỏi rớt ra ngoài;
mũi kim băng bằng sắt, nhọn, móc đầu con chần chần ra nhanh và dễ hơn.
Dĩ nhiên,
ngồi hoài thì bỏ việc, nên ca dao mới có câu than:
Chần chần ơi hỡi chần chần,
Ham ăn bỏ việc không mần mạ la.
“Ham ăn”?
Tức là tham ăn, ăn hoài không thấy chán! Cứ nghe ngôn ngữ trong câu ca dao: “mần việc” thay vì “làm việc”. “Mạ” thay vì
mẹ hay má, thì rõ ràng chần chần ở xứ tôi mới có. Chỉ ở Quảng Trị mới có ốc chần
chần.
Từ phá Tam
Giang trở vào, cho tới miền Tây Nam Bộ, nơi tôi “lặn lội” ở đó nhiều năm dài, tôi không thấy ở vùng đó có ốc chần
chần bao giờ. Ngay Thuận An cũng đã không có rồi, nói chi xa hơn về phía Nam.
Thông thường
bờ biển Việt Nam nhiều vùng có cát. Cát ở Cửa Tùng, Cửa Việt, ở các làng Cát
Sơn, Thủy Bạn, An Mỹ… trắng lắm, màu của tờ giấy trắng. Cát ở Cửa Thuận An vàng
hơn. Như vậy, có phải chỉ ở vùng có cát trắng như tờ giấy trắng mới có con chần
chần, cát vàng thì không?! Khi tôi lớn lên thì nước ta chia làm hai miền ở sông
Bến Hải nên tôi không được ra phía bắc của con sông nầy để biết vùng ngoài đó
có chần chần hay không.
Năm 1947,
khi gia đình tôi chạy tản cư ra ở làng Huỳnh Công, phủ Vĩnh Linh, dự trù ra
Thanh Hóa, theo lệnh của Việt Minh thì Tây đổ bộ lên Đồng Hới, con đường ra Bắc
không đi được nữa. Gia đình tôi lại chạy về phía Nam sông Bến Hải, đường đi là
dọc theo bờ biển, theo các làng Thủy Tú, Thủy Bạn. Bờ biển vùng nầy cũng toàn
cát trắng, nhưng vừa chạy giặc, lại không ở lâu nên tôi không nhớ ở các làng
đó, có con chần chần hay không!
Điều nầy,
độc giả muốn biết rõ hơn, xin hỏi “Nhà Thổ
Nhưỡng Học Thái Công Tụng”, ông quê ở Cam Lộ, ông sẽ giải thích cho. Tôi hy
vọng như hế! Nhưng chợ Cạn thì nhiều lắm.
Chợ Cạn có
thể coi như một cái chợ nhỏ, nhưng lại là trung tâm của các làng vùng biển Quảng
Trị: Phía bắc Chợ Cạn có các làng Việt An, Tường Vân, Gia Đẳng, phía nam có các
làng Linh (hay Liên?) Chiểu, Đồng Bào, Phương Lang… Chợ chỉ đông vào buổi sáng,
hình như mỗi tháng có mấy phiên, tan cũng rất nhanh. Buổi chiều thì chợ vắng
tanh, buồn ghê! Buồn như chợ chiều mà. Ca dao đã nói vậy.
Chợ chiều nhiều khế, ế chanh
Nhiều con gái tốt nên anh chàng
ràng
Chàng ràng như ếch hai hang
Như chim hai ổ, như nàng hai
nơi...
Khế thường
chua, còn chanh thì không ngọt bao giờ. Chanh ngọt thì ai mua? Con gái tốt là
con gái đẹp. Thấy con gái đẹp thì “anh
chàng ràng”, chắc cũng không sai. Nhưng tại sao lại đem con gái đẹp mà ví với
chanh hay khế? Tại vì con gái “chanh
chua” hay con gái như trái khế, trái chanh chua. Ngó thì ngọt nhưng ăn vào
thì chua lắm… Kinh nghiệm của tôi đó mà!!!
Những năm
cuối thập niên 1950, nhiều nhà đua nhau làm rèm cửa. Do một “sáng kiến” nào đó, họ dùng báo “Thế Giới Tự Do” của Phòng Thông Tin Hoa
Kỳ cắt nhỏ rồi cuốn lại, làm rèm như rèm trúc. Dĩ nhiên, sau đó, việc phát
không báo “Thế Giới Tự Do” không dễ
dàng như trước kia nữa.
Có người
lại “sáng kiến” dùng ốc chần chần thế
vô. Người ta đục lỗ xuyên qua chiều dẹp của con chần chần, xâu một sợi chỉ vải
hay gấc vào đó. Bức rèm trông cũng đẹp, nhưng vỏ ốc chần chần không bền. Vỏ mỏng
quá, không bao lâu, cái lỗ xâu rộng ra, cái vỏ ốc nằm ngang, “mất trật tự”, trông xấu quá, người ta
phải bỏ đi.
Trở lại
chuyện năm 1947, gia đình tôi chạy tản cư về Chợ Cạn, trước khi ra Vĩnh Linh.
Chợ Cạn nằm bên con đường đất, từ phía Linh Chiểu, Phương Lan ngang qua chợ mà
ra phíc bắc, có các làng Gia Đẳng, Tường Vân… Con đường nầy bây giờ có tên là Tỉnh
lộ 68 (?). Từ con đường đất ngó vào, bên phải là một dãy nhà, gian ngoài cùng
là quán “chạp phô” của chị Ba, người
gọi mẹ tôi bằng dì. Chị đã có chồng, có con. Tôi chỉ thấy mấy đứa con mà không
thấy chồng chị. Ông “theo Việt Minh”
rồi, có lẽ. Phía trong cũng có một dãy nhà song song với con đường đất. Một người
thợ hớt tóc, chạy tản cư về đây, mở tiệm hớt tóc. Tiệm ế lắm, buổi chiều, anh
cùng đám thanh niên trong làng đánh bóng chuyền ở sân chợ. Kế sân, sát đường đất
là một cây bàng già, lưu niên. Điều tôi nhớ nhất ở gốc bàng nầy là cái gì? Một
đống vỏ chần chần. Ai ăn chần chần xong, cứ đổ vỏ vào đấy, chẳng ai la rầy gì cả.
Đống vỏ chần chần nầy cũng “lưu niên”,
có nghĩa là người ta đổ vỏ vào đây từ mấy năm trước. Đống vỏ cũ chưa tiêu hết
thì đống vỏ năm sau được đổ chồng lên.
Mấy năm
sau, khi lớn hơn tí chút, sau “trận Thanh
Lương” năm 1953, Tây thua một trận te tua ở Thanh Lương, ông Đội Trọng, làm
“đơ dzèm buya rô” cho Tây ở thị xã Quảng
Trị, bị Việt Minh bắt, bị Việt Minh xử tội, treo cổ ở cây bàng nầy. Đó là điều
tôi nghe kể lại. Mới đây, hình như ông Trần Quốc Phiệt cải chính tin ấy, nói là
ông Đội Trọng bị bắn chớ không phải bị treo cổ ở cây bàng nầy. Đằng nào cũng chết,
“một đời theo Tây”.
Hồi ấy chị
Sâm, con gái chưa chồng, cũng có gian hàng bán ở chợ. Buổi chiều, ra về, chị
thường cầm ở tay một cuốn sách, dày như cuốn tự điển. Tôi nghĩ chị là người có
học. Vậy mà cũng mấy năm sau, khi gia đình tôi đã “hồi cư” về thị xã. Tôi lại gặp
chị. Chị đã có chồng, một ông đội Tây. Chị thuê nhà ở cạnh nhà tôi. Một hôm, chị
nhờ tôi viết một cái thư gởi về cho mẹ còn ở Chợ Cạn - Tôi đang học lớp nhì.
Khi đó tôi mới “tá hỏa” ra là chị
không biết chữ. Vậy mà hồi ở chợ Cạn, chị thường ôm cuốn tự điển trong tay. Đó
là cái hộp gỗ, trang trí như cuốn sách dày. Cái hộp gỗ cũng “hù” người ta được vậy!
Phía đối
diện với chợ, có ngôi nhà lớn trở mặt ra phía con suối cạn, tôi “phục” ông chủ nhà nầy lắm. Ông ta khoéo
tay, dùng cái cọng dù cũ chế thành cây súng bắn chim. Phía Bắc chợ, cách khoảng
chừng nửa cây số la nhà anh Trần (?) Văn Mai, đã có vợ con. Anh cả tôi thường đến
chơi, có lẽ anh Mai là người có học. Anh có bằng “ri-me”. Nhà anh Mai khá giả. Con đường đi vô nhà khá dài, hai bên
là hai hàng chè tàu. Cũng mấy năm sau, tôi lại gặp anh ở thị xã Quảng Trị, anh
làm việc cho ty Công-An Việt Nam.
Nhà tôi ở
sát chợ, phía bên kia con đường đất, đối diện với chợ. Hồi đó tôi đã biết hát
vài bài: Ngoài những bài như “Không Quân
VN”, “Hải Quân VN”, “Lệnh vua hành quân…”, tôi thường hát “Chinh phụ ca”: “Từ chàng ra đi, lưng khoác chiến y, và hồn nương bóng quốc kỳ…”
Dân nhà quê, không rành hát hỏng, với lại đó là những bài hát mới, thường gọi
là “Nhạc cải cách”, họ ít khi được
nghe, nên thường “yêu cầu” tôi hát
cho họ nghe. Hát xong, chẳng ai cho gì, ngoài tiếng khen…
Buổi chiều,
ba anh em tôi: Anh cả, anh kế và tôi thường đi qua phía làng Linh Chiểu, nơi có
nhiều đám ruộng, lúa đã cao nhưng chưa trỗ bông. Phía làng đó có một cô “nữ học sinh” còn trẻ, nhà ở trong Thành
cổ Quảng Trị, cũng “chạy tản cư”; nhiều
ngày, cô thường mặc một bộ đồ trắng, áo dài tha thướt, lửng thửng ở Chợ Can!
Ông anh cả tôi “ngấp nghé” cô nàng nầy
chăng?
Từ những
đám ruộng và từ trong những cánh đồng ấy, tiếng giun dế kêu liên tu bất tận, dễ
làm cho tôi nhớ nhà, ngôi nhà cũ ở thị xã, mà tôi xa cách gần một năm nay, kể từ
khi có lệnh tản cư của Việt Minh. Những âm thanh mùa hè đó, rời khỏi Chợ Cạn,
tôi không còn nghe nữa. Tuy vậy, nếu độc giả nghe “Four Seasons” của Vivandi, sẽ gặp nó đấy. Té ra, âm nhạc, tiếng
hát, tiếng gọi của đồng quê, Đông Tây cũng giống nhau!
Được ít
lâu thì Tây về lùng, có lính Bảo Vệ đi theo. Tây thì đốt nhà, giết ai họ nghi
là Việt Minh, lính Bảo Vệ thì bắt gà, bắt heo. Bọn trẻ ở chợ như chúng tôi thường
nói câu, không biết ai dạy cho: “Cắc, bụp,
tùng xeo, mấy thằng Bảo Vệ bắt heo đồng bào” hoặc “Cắc bụp tùng xòa, mấy thằng Bảo Vệ bắt gà bắt heo.” Khi Tây về
lùng, thanh niên trai gái chạy cả, chạy vô phía làng Đồng Bào, Phương Lang.
Thanh niên thì sợ Tây bắn. Con gái thì sợ bị hiếp dâm. Tôi chạy núp dưới cây cầu
tre, mặt cầu đan bằng tre, ở con suối giữa chợ và làng Linh Chiểu. Hai chiếc
máy bay đang đảo vòng quanh, chuẩn bị bắn xuống Chợ Cạn lần thứ hai hay lần thứ
ba, tôi không nhớ. Tôi chợt nghĩ, núp dưới cầu như thế nầy, người đang chạy trên
cầu, máy bay sẽ bắn họ. Bắn họ những lại trúng tôi! Vậy là tôi bỏ cây cầu chạy
ra phía biển. Nhà dì tôi, mẹ chị Ba, ở phía ấy. Tây về lùng tới Chợ Cạn thì rút
lui. Mọi người lại về. Chị Ba kể: “Có thằng
lính Bảo Vệ, nói với thằng Tây: “Mì xự, mì xự. Lấy bún mà măng-giê”. Thằng
Tây không ăn. Tên lính Bảo Vệ biểu chị Ba làm cho nó một “đọi” (tô) bún, chan
nước mắm và ớt vô. Trước khi ăn, nó đưa tay làm dấu Thánh giá.
Còn tôi?
Khi máy bay bắt đầu xả súng, tui chun nằm dưới gầm giường, bên cạnh chị tôi.
Không hiểu sao, tôi lại trồi lui, rồi chạy ra con suối cạn. Một thằng bé cùng
xóm chui vô nằm ngay chỗ tôi, bên cạnh chị tôi. Thằng bé lãnh ngay một viên đạn
ở ngực, chết liền tại chỗ, thế mạng tôi. Mấy chục năm rồi, tôi vẫn không quên đống
vỏ chần chần ở gốc cây bàng trong sân chợ và lần thoát chết ở đó, năm chạy tản
cư.
Hoàng Long Hải
...
C/c: Tôi có đứa cháu nội, cháu gái, mẹ nó quê ở
Chợ Cạn. Mẹ đặt tên con là “Juliany”, dân Mỹ mà! Đứa cháu bé làm tôi nhớ Chợ Cạn,
nên thay vì gọi nó bằng tên Mỹ, tôi lại gọi nó bằng cái tên nhiều kỷ niệm với
tôi: “Con Chần Chần.” Vợ tôi thường nói: “Đưa Chần chần cho nội bồng” mỗi khi vợ
chồng nó bồng con tới thăm!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét