(Bài viết có dùng thông tin tổng hợp từ Chat GPT)
Tác
giả Nguyễn Toàn Thắng (bìa trái) cùng Đặng Xuân Xuyến (bìa phải)
Thơ viết về rượu của Đặng Xuân Xuyến có một vị trí
riêng biệt và khá độc đáo trong bối cảnh thơ Việt hiện đại, khác biệt so với cả
hai xu hướng chính là "thơ thị trường hóa" và "thơ học thuật
hóa". Ông tạo ra một phong cách riêng và khác biệt ở chỗ: không quá trau
chuốt về mặt hình thức nhưng lại rất chân thật và đậm chất đời sống với ngôn ngữ
thuần dân gian, có chút ngang tàng, đôi khi lại cố tình “tục hóa” để phản kháng
sự giả dối hay sáo mòn của văn chương bác học, đặc biệt là trong việc thể hiện
nỗi cô đơn và những trải nghiệm cá nhân. Ông không cố gắng tạo ra tượng đài tư
tưởng, mà là người "giữ ký ức bằng ngôn ngữ", "ghi lại những chấn
động ngắn ngủi của tâm hồn" một cách sắc hoặc mờ, nhưng luôn thật. Ngay cả
khi miêu tả cảnh xác thịt, đó là cái "tục của người từng trải", mang
ý nghĩa nhấn mạnh phận người chứ không nhằm mục đích gây sốc hay dơ bẩn.
So với các nhà thơ đương đại khác, thơ của Đặng Xuân
Xuyến có thể được coi là độc đáo khi ông không ngại ngần phơi bày những góc khuất,
những điều tiêu cực của cuộc sống và đối diện trực tiếp với những góc khuất, những
điều tiêu cực đó, điều mà nhiều nhà thơ đương đại khác thường tìm cách né
tránh. Ông không dùng rượu để giải thoát hay tìm kiếm những điều siêu nhiên mà
thay vào đó, rượu được ông đặt trong bối cảnh đời thường, gắn liền với những nỗi
niềm, trăn trở của cuộc sống hiện thực. Ông sử dụng rượu như một công cụ để đối
diện với những khó khăn, thử thách và cả những nỗi buồn, mất mát trong cuộc sống,
chứ không phải để trốn tránh hay quên lãng.
Đặng Xuân Xuyến thường chọn chủ đề và bối cảnh xoay
quanh những quán cóc vỉa hè, những bữa tiệc tàn, những mối quan hệ bạn bè, tình
yêu và cả những vấn đề chính trị, xã hội. Rượu trở thành một phần không thể thiếu
trong những bối cảnh đó, là chất xúc tác, là phương tiện để nhà thơ giải tỏa,
chia sẻ và đối mặt với thực tế. Ông không chủ ý cầu kỳ về hình thức của thơ mà
chú trọng vào sự chân thật, phóng khoáng của cảm xúc.
Ví dụ, trong khi nhà thơ Nguyễn Du viết: “Khi chén rượu,
khi cuộc cờ / Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên” (Kiều) ; “Lim dim nhấp chén bên
song / Nhìn ra hoa rụng chất chồng trên rêu / Sống mà uống chẳng bao nhiêu / Chết
rồi, ai xách rượu theo rưới mồ?” (Đối tửu)..., thể hiện sự thưởng thức rượu
trong không gian tao nhã và tri kỷ thì nhà thơ Đặng Xuân Xuyến chọn cách viết:
“Rượu tới tầm ngật ngưỡng / Khật khừ ngất ngưởng vào đêm / Hớ hênh hàng xóm xộc
xệch ngủ / Giật mình / Gió lạnh luồn đêm” (Tỉnh) ; “Một chai / Một chén / Một
tôi thôi / Một đêm gió quẩn chỗ tôi ngồi / Một bàn tay lạnh quờ vai lạnh / Một
tiếng thở dài tôi với tôi!” (Một tôi),... thể hiện sự cô đơn, suy tư trong khoảnh
khắc cá nhân. Hay như khi nhà thơ Nguyễn Bính viết "Em uống cho say đến
não nùng/ Uống say cười vỡ ba gian gác/ Ném cái chung tình xuống đáy sông"
để thể hiện sự buông thả, đau khổ trong tình yêu thì nhà thơ Đặng Xuân Xuyến lại
có những câu thơ như "Ngấu nghiến nhau chỉ giải nghiền cơn khát" hay
"Thịt mày gắp / Tao nhai khó nuốt" để thể hiện sự giằng xé, sự đối diện
trực diện với tình yêu, với cuộc đời.
So với các nhà thơ trung đại như Nguyễn Khuyến, Tú
Xương, Nguyễn Công Trứ... thường mượn rượu để bày tỏ khí tiết, trách đời hoặc tự
trào về thân phận trí thức với giọng điệu kín đáo, sử dụng nhiều ẩn dụ và ngôn
ngữ có tiết chế. Ví dụ, trong bài "Rượu ngon không có bạn hiền" của
nhà thơ Nguyễn Khuyến, ông dùng hình ảnh “rượu ngon” để nói về sự cô đơn, và “bạn
hiền” để chỉ những người tri âm tri kỷ thì ngược lại, nhà thơ Đặng Xuân Xuyến
thường viết một cách trực tiếp, không cần ẩn dụ. Ông nói thẳng những điều muốn
nói, ví như câu: "Rượu mày mời / Tao uống khó trôi / Thịt mày gắp / Tao
nhai khó nuốt" trong bài “Bạn quan” hoặc như câu: “Thì bởi tâm mày trọn Thẳng
Ngay / Tao mải loay hoay chọn Nghĩa Tình / Mà đời những rặt trò gian lận / Tao
mày nếm đủ những gian truân.” trong bài “Rượu với bạn”.
So với thơ về rượu của nhà thơ Bùi Giáng thường mang đậm
chất lãng mạn, đưa người đọc vào thế giới của những giấc mơ, những suy tư triết
học, với ngôn ngữ đa nghĩa, mang tính tượng trưng cao, tạo ra những hình ảnh
thơ phong phú, giàu sức gợi, chứa đựng những triết lý sâu sắc về cuộc đời, về
con người: “Ngày nào trùng ngộ bước ra / Trùng sinh sương sớm đầu hoa cuối cùng
/ Chân trời mặt biển thong dong / Bình minh nắng gió mây hồng vèo bay” (Uống rượu
yêu đời),... thì thơ về rượu của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến lại mang đậm chất ngẫu
hứng đời sống, không hoa mỹ và không né tránh những góc khuất của cuộc sống, đặc
biệt là mảng đề tài chốn quan trường: “Ừ, đời thế. Qua cầu thì hại “bạn” / Dấn
quan trường sao mày chả chịu “khôn” / Đục kín dòng mày lại cố gượng trong /
Chúng nó đập bởi mày không chịu hỏng” (Quan trường). Rượu trong thơ Đặng Xuân
Xuyến là "chứng tích cho nỗi đau con người giữa đời thực thô ráp", giống
như những câu chuyện trong quán rượu vỉa hè, thể hiện sự chán chường, thất vọng
và cả những tiếng cười khẩy vào đời, đó không chỉ là phương tiện giải sầu mà
còn là cách để "phơi bày, lột trần, để thở ra" những góc khuất của cuộc
sống. Đặng Xuân Xuyến có nét “ngông” tương đồng với Bùi Giáng, nhưng không bị
điên. Thơ của ông có sự phá cách, phóng túng, nhưng vẫn giữ được sự tỉnh táo và
lý trí nhất định. Tóm lại, thơ về rượu của Đặng Xuân Xuyến và thơ về rượu Bùi
Giáng đều khai thác đề tài rượu nhưng cách tiếp cận và phong cách lại rất khác
biệt. Đặng Xuân Xuyến dùng rượu như một phương tiện để bộc lộ nỗi đau, sự phơi
bày hiện thực đời sống thô ráp, không tô vẽ, trong khi Bùi Giáng sử dụng rượu để
đưa người đọc vào thế giới mộng mị, huyền ảo, kết hợp giữa triết lý và cảm xúc
cá nhân.
So với các nhà thơ đương đại khác thì trong khi nhiều
nhà thơ đương đại tìm cách né tránh hoặc tô vẽ cho những trải nghiệm tiêu cực,
Đặng Xuân Xuyến lại đối diện trực tiếp với chúng, thể hiện qua những hình ảnh,
câu chữ có phần "đắng, chát, khó nuốt" nhưng lại chạm đến nỗi cô đơn
phổ quát của con người. Đặng Xuân Xuyến không ngại để lộ những "vết xước,
sẹo dài" trong tâm hồn, những góc khuất trong cuộc sống, và điều này tạo
nên một sự gần gũi, một sự đồng cảm mạnh mẽ với người đọc.
Cụ thể, thơ của Đặng Xuân Xuyến, đặc biệt là chùm
"22 bàì thơ về rượu", không hướng đến sự hoàn hảo về mặt ngôn ngữ hay
hình ảnh, mà tập trung vào việc thể hiện cảm xúc chân thật, thậm chí có phần
gai góc và chua chát của con người khi đối diện với nỗi cô đơn và những khó
khăn trong cuộc sống. Điều này khác biệt so với nhiều nhà thơ khác, những người
có thể tập trung vào việc trau chuốt ngôn ngữ, tạo ra những hình ảnh đẹp, hoặc
những nhà thơ khác lại đi sâu vào lý luận, triết học, đôi khi làm cho thơ trở
nên xa rời với đời sống thực tế.
Hoặc khi nhiều nhà thơ đương đại khác viết về rượu thường
thiên về tâm trạng cá nhân hóa, cô đơn kiểu thị dân, hướng đến vẻ đẹp lãng mạn,
sự thanh cao, hoặc sử dụng rượu như một phương tiện để thể hiện tâm trạng, cảm
xúc cá nhân, hoặc tìm kiếm sự đồng điệu, tri kỷ với những hình ảnh thơ mộng,
bay bổng và tránh xa những điều "tục" hay trần tục thì Đặng Xuân Xuyến
lại khai thác rượu trong bối cảnh đời sống ngổn ngang, quán cóc vỉa hè, tiệc
tàn, tình dục và những mâu thuẫn trong cuộc sống với một sự đau đáu tập thể, một
cái tôi thô ráp, từng va đập với thực tế chính trị và xã hội. Ông ưa dùng lời
thuần dân gian, khẩu ngữ, đôi khi ngang tàng, tự trào, đầy khinh bạc như một
thái độ "ngông" của người không chịu nổi sự giả dối hay sự sáo mòn của
văn chương bác học, không những là tuyên ngôn sống cho một kiểu nhà thơ muốn sống
thật với chính mình, quyết “không chiều lòng văn đàn” mà còn là lời tự bạch trần
trụi, không hoa mỹ, không ve vuốt, không cần che giấu. Đó là một kiểu thơ về rượu
độc nhất vô nhị - thơ rượu của một người từng say và còn nhớ mọi điều trong cơn
say đó.
Nếu như nhiều nhà thơ đương đại khác viết về rượu thường
mang màu sắc siêu thoát, tìm kiếm lẽ sống, hoặc có tính chất giải trí: “Ta uống
cạn ly này nghe chếnh choáng / Đêm lạc vào cung Quảng thấy Hằng Nga / Lòng dại
ngây sương khói quyện la đà / Nghe phiêu lãng như là miền thu động....” (Tửu sầu
- Hồng Dương) ; “Bạn như biết mà không nói hết / Bạn cùng ta chén trước chén
sau / Bạn uống cạn thì ta cũng cạn / Tửu lượng ta nào kém ai đâu.” (Mời trăng -
Hoàng Trung Thông) ; “Mạch máu căng lên những vệt rắn bò / Đêm vĩ đại chôn vùi
trong quán nhỏ / Rừng mang mang gọi từng khúc thu vàng / Rượu câm lặng chở những
linh hồn rắn / Có một kẻ say hát lên bằng nọc độc trong mình” (Trong quán rượu
rắn - Nguyễn Quang Thiều) ; “Nụ cười ánh mắt bờ môi / Hình bóng em mãi rạng ngời
đáy ly / Làm gì uống hết được đây / Đầy vơi ly rượu vẫn đây bóng hình” (Rượu một
mình - Hoàng Trọng Lợi) ; “Lộn túi. Xem đây! Hết tiền rồi! / “Tao mua bát chịu,
trả sau thôi / Con đường chưa uống xe không chạy.!” / Lại bát đầy ve lại liếm
môi!” (Người Mèo uống rượu - Nguyễn Lâm Cẩn) ;
“Thuở xưa gõ chén nghêu ngao / Chưa tan vỡ, chưa khổ đau đoạn tình. / Giờ
đây độc ẩm cõi mình / Uống sao cho cạn bóng hình ngày xưa” (Rượu sầu - Phạm Thị
Mai Khoa) ; “Mặc đời bao nỗi bi, hoan... / Gặp nhau ta cứ say tràn cung mây! /
Khi nào về với cỏ cây / Chỉ xin rưới: một chén đầy... Rượu quê!” (Rượu quê -
Mai Văn Hoan)... Thì thơ của Đặng Xuân Xuyến lại tập trung vào việc đối diện với
hiện thực phũ phàng, những nỗi thất vọng và sự giả dối của cuộc sống. Đặng Xuân
Xuyến không tìm kiếm sự giải thoát hay ánh trăng để ngâm, mà thay vào đó thi
nhân ngồi lại, cụng ly với những điều đó, thể hiện sự bất mãn và sự thật trần
trụi của cuộc đời. Rượu được Đặng Xuân Xuyến dùng để chịu đựng, để đối mặt với
thực tại hơn là để giải thoát khỏi thực tại trần trụi của cuộc sống: “Chả có gì
người ngại bon chen / Ta vốn dĩ dạn đêm cùng gối lẻ / Người thì cũng đêm trường
nát lệ / Vịn vào nhau mà sưởi ấm nụ cười.” (Chiều ta về) ; “Đợi xuân xuân chửa
chịu về / Đợi tình tình lại mải mê xứ người / Nâng lên ly rượu tự mời / Uống đi
cho cạn nụ cười nhếch môi?!” (Đợi) ; “Vội vã cuống cuồng quấn chặt nhau / Chẳng
vì yêu / Chẳng vì đầu mày cuối mắt / Ngấu nghiến nhau chỉ giải nghiền cơn khát
/ Trách móc làm gì câu nói đầu môi” (Tình vội) ; “Chén rượu đấy, rót rồi, cứ uống
/ Nước mắt đan đốt tê dại đêm cuồng / Đắp nụ cười nghẹn đắng lằn môi / Nuốt lấy
nhau gán niềm tin tráo đổi” (Rượu đêm nay) ; “Ừ, đời thế. Qua cầu thì hại “bạn”
/ Dấn quan trường sao mày chả chịu “khôn” / Đục kín dòng mày lại cố gượng trong
/ Chúng nó đập bởi mày không chịu hỏng” (Quan trường) ; “Rượu tới tầm / Mày ghé
tai tao / Nói thật nhỏ / Căng tai mới rõ / Làm người khó / Làm quan càng khó /
Chốn quan trường chó vịt giống nhau / Mày than đời chỉ rặt những thau / Quan
càng lớn chữ nhân càng nhỏ / Ví miệng quan giống trôn trẻ nhỏ / La liếm quen rồi
nào biết bẩn nhơ” (Bạn quan)...
Sự khác biệt này giúp nhà thơ Đặng Xuân Xuyến tạo ra một
dấu ấn riêng, một phong cách không thể nhầm lẫn trong làng thơ Việt. Ông không
cố gắng trở nên bóng bẩy hay hàn lâm, mà tập trung vào việc thể hiện một cách
chân thật nhất con người, với đầy đủ những hỉ nộ ái ố, những nỗi cô đơn và những
trải nghiệm đời thường nhất.
Tóm lại, thơ về rượu của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến mang
một dấu ấn riêng, khác biệt với nhiều nhà thơ Việt Nam khác, đặc biệt là về giọng
điệu và cách tiếp cận chủ đề. Ông không né tránh những khía cạnh đời thường, thậm
chí có phần thô ráp của cuộc sống, không tô hồng nỗi đau mà đi thẳng vào nó với
một phong cách mạnh mẽ, đôi khi có phần trần trụi và gai góc như một phương tiện
để đối diện với hiện thực cay đắng của một nhà thơ đứng ngoài lề các thiết chế
chính thống, đặc biệt là trong cách Đặng Xuân Xuyến đưa rượu trở về với đời thường,
với những khía cạnh đầy tính hiện sinh của cuộc sống.
Hà
Nội, tháng 9 năm 2025
Nguyễn Toàn Thắng
Địa chỉ: Nhà 11B, ngách 59, ngõ 176 Trương Định
quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Email: nguyentoanthang77@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét