BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 10 tháng 9, 2025

BÁT NHÃ TÂM KINH VÀ TUỆ GIÁC “ĐÁO BỈ NGẠN” - Huỳnh Duy Lộc



Bát nhã tâm kinh (Prajnaparamitahridaya-sutra; Đoàn Trung Còn dịch là Bát nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh) là một bản văn rất ngắn của Phật giáo Đại thừa được chép và đọc nhiều nhất ở Đông Á và Trung Á. Chỉ trong một trang, với những câu chữ được cho là của Bồ tát Quán Tự tại (Avalokitesvara; Đoàn Trung Còn dịch là Quán Thế âm, Quán Tự tại), Bát nhã tâm kinh luận giải học thuyết về tính Không (Sunyata) được cho là bản chất của thực tại.
Nhà sư Trần Huyền Trang (602-664) đã dịch Bát nhã tâm kinh từ tiếng Phạn sang Hán tự vào năm 649 như lời của đại sư Daisetz Teitaro Suzuki: “Bát nhã tâm kinh là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật đa (Prajñāpāramitā). Huyền Trang dịch Tâm kinh ra Hán ngữ vào năm 649…”
                                                               (Thiền luận, tập 3, tr.211).

Bản dịch của Huyền Trang có 260 chữ Hán dựa trên bản văn Tâm kinh tiếng Phạn có cả thảy 280 chữ.
 
Ảnh:  Trần Huyền Trang, người đã dịch Bát nhã tâm kinh từ tiếng Sanskrit sang chữ Hán

Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho biết thời điểm ra đời của Tâm kinh:
“Tâm kinh ra đời vào cuối thời kỳ phát triển rực rỡ của kinh văn Đại thừa, có lẽ vào thế kỷ V hoặc thế kỷ VI Công nguyên. Vào thời kỳ này, Mật tông (tức Chơn Ngôn tông theo Đoàn Trung Còn) có ảnh hưởng sâu rộng và những người theo các phái của Mật tông đã bắt đầu dựa vào phép thuật, đưa ra những câu thần chú và những thủ ấn (mudra) giúp cho họ đạt tới sự giác ngộ. Người chép lại Tâm kinh đã dùng một thủ thuật khéo léo để khích lệ những người theo Mật tông đọc và thực hành theo Tâm kinh vốn chứa đựng những lời dạy sâu sắc nhất của Đức Phật. Vì lẽ đó, Tâm kinh được trình bày với một câu thần chú…”
                                                                (The Other Shore, tr. 21).

Ông cũng cho biết ý nghĩa và giá trị của Tâm kinh:
“Bài kinh mà chúng ta thường gọi là Tâm kinh (Heart Sutra) có tên đầy đủ trong tiếng Phạn là Prajnaparamita-hrdaya-sutra. Param có nghĩa là “bờ bên kia” (bỉ ngạn), ita có nghĩa là “qua” và prajna có nghĩa là “tuệ giác”. Hrdaya có nghĩa là “tâm” hay “điều cốt yếu”, còn sutra có nghĩa là “bản kinh”. Prajnaparamita-hrdaya-sutra có thể dịch là “tuệ giác đưa chúng ta qua bờ bên kia” vì trong câu thần chú kết thúc kinh này có chữ paragate có nghĩa là “đã qua bờ bên kia”. Trong kinh Sutta Nipata, một trong những kinh văn Phật giáo ra đời sớm nhất, được chép nhiều thế kỷ trước Tâm kinh, có cả một chương tên là Parayana có nghĩa là “vượt qua để tới bờ bên kia”. Tuệ giác của Prajnaparamita là chân lý tối hậu vượt lên trên những chân lý ước lệ. Đó là tuệ giác tối thượng của Phật giáo…”
                                                                  (The Other Shore, tr. 22).

Nội dung của Tâm kinh là lời giảng của Đức Phật với thầy Xá Lợi Phất (Sariputra), một trong 10 đại đệ tử của ngài.
 
Tâm kinh theo phiên âm Hán Việt:
 
1. Quán tự tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai Không, độ nhất thiết khổ ách.
2. Xá Lợi tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị sắc; sắc tức thị Không, Không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
3. Xá Lợi tử! Thị chư pháp Không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.
4. Thị cố Không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
5. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng; cứu cánh Niết bàn.
6. Tam thế chư Phật y Bát nhã Ba la mật đa cố đắc A nậu Ða la tam miệu tam Bồ đề.
7. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề, tát bà ha”.
 
Ngày 11 tháng 9 năm 2014, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã hoàn tất bản dịch tiếng Anh của Bát nhã tâm kinh dựa trên bản dịch tiếng Việt do ông thực hiện 3 tuần trước đó tại Học viện Phật giáo thực hành (European Institute of Applied Buddhism) ở Đức.
 
Bản dịch của Thích Nhất Hạnh:
 
“Bồ-tát Avalokiteśvara, trong khi quán chiếu sâu sắc với tuệ giác qua bờ, bỗng khám phá ra rằng tất cả năm uẩn đều trống rỗng, tất cả đều là cái Không. Giác ngộ điều ấy xong, bồ-tát vượt qua được mọi khổ đau ách nạn.
“Này Śāriputra, hình hài này chính là cái Không và cái Không cũng chính là hình hài này. Hình hài này không phải là một cái gì khác với cái Không và cái Không cũng không phải là một cái gì khác với hình hài này. Điều này cũng đúng với các cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức.
“Này Śāriputra, tất cả mọi hiện tượng đều mang theo tính Không, không hiện tượng nào thực sự có sinh, có diệt, có có, có không, có dơ, có sạch, có thêm và có bớt.
“Chính vì vậy mà trong cái Không, năm uẩn là hình hài, cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức đều không có mặt như những thực tại riêng biệt. Mười tám lĩnh vực hiện tượng là sáu căn, sáu trần và sáu thức cũng đều không có mặt như những thực tại riêng biệt; mười hai khoen nhân duyên cùng sự chấm dứt của chúng, bốn đế là khổ, tập, diệt và đạo cũng không có mặt như những thực tại riêng biệt; tuệ giác và chứng đắc cũng đều như thế.
“Vị bồ-tát khi thực tập phép quán tuệ giác qua bờ không thấy có gì cần được chứng đắc, nên không thấy còn có gì chướng ngại trong tâm. Và vì tâm không còn chướng ngại nên vị ấy vượt thắng được mọi sợ hãi, đập tan được mọi tri giác sai lầm và đạt được Niết bàn tuyệt hảo.
“Tất cả các vị Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai nhờ nương vào phép thực tập tuệ giác qua bờ mà đạt tới chánh giác toàn vẹn.
“Cho nên, này thầy Śāriputra, ai cũng cần biết rằng tuệ giác qua bờ là một linh chú lớn, là linh chú sáng nhất, là linh chú cao nhất, là linh chú không thể so sánh được. Đó là tuệ giác chân thực có khả năng diệt trừ tất cả mọi khổ nạn. Vì vậy ta nên đọc lên câu linh chú sau đây để tán dương tuệ giác qua bờ:
“Gate, gate, pāragate, pārasamgate, bodhi, svaha!”
 
Thích Nhất Hạnh đã bình giảng câu:
“Này Sariputra, tất cả mọi hiện tượng đều có tính Không”:

“Tính Không là cánh cửa đầu tiên trong 3 cánh cửa giải thoát. Có thể tìm thấy lời dạy về 3 cánh cửa giải thoát trong rất nhiều kinh văn buổi đầu của Phật giáo, có những kinh văn có trước Tâm kinh hàng ngàn năm. Chúng ta thấy thân thể, cảm xúc, tri giác, ý tưởng và ý thức của mình thay đổi  từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, biến đổi và phát triển không ngừng. Nhưng tính Không không chỉ liên quan tới ngũ uẩn mà chúng ta thường gọi là cái ngã của mình. Thật ra, mọi hiện tượng, mọi pháp (dharma) đều có tính Không. Vào thời Đức Phật, niềm tin ở ý niệm về một cái ngã siêu nhiên là một niềm tin rất phổ biến trong các nghi thức tôn giáo của người Ấn. Mọi người tin rằng bên dưới mọi sự biến đổi mà mình nhìn thấy có một cái gì đó không biến đổi, một linh hồn bất diệt hay cái ngã gọi là atman (tiểu ngã). Người ta tin rằng khi thể xác phân hủy, linh hồn sẽ tiếp tục tồn tại trong một thể xác khác, sẽ trải qua nhiều chu kỳ sinh, tử, và mục tiêu mà cái ngã (atman) phải đạt tới là hợp nhất với đại ngã được gọi là Brahman. Khi giảng pháp, Đức Phật đã chống lại niềm tin này, nói rằng chẳng hề có cái mà chúng ta có thể gọi là “ngã”. Đó là khởi đầu của một cuộc cách mạng. Ngài chỉ ra rằng mỗi hiện tượng chỉ là biểu hiện của nhiều nguyên do và điều kiện. Chẳng có hiện tượng nào có tính thường hằng hay bất biến – dù chúng ta có gọi nó là atman hay Brahman, tiểu ngã hay đại ngã. Quan điểm của ngài nhằm triệt tiêu ý niệm tiểu ngã và đại ngã. Tuy nhiên, nhiều thế kỷ sau khi Đức Phật nhập diệt, nhiều phái của Phật giáo vẫn cố bám víu lấy ý niệm về cái ngã. Phái Sarvastivada (Nhất thuyết hữu bộ) hình thành ở Kashmir vào thế kỷ I Công nguyên là một trong những tông phái của Phật giáo có ảnh hưởng sâu rộng và mạnh mẽ, đã phát triển ở Đông Bắc Ấn Độ suốt 1000 năm. Nhiều kinh văn quan trọng của phái Sarvastivada đã được dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán. Trung thành với lời dạy của Đức Phật, những người theo phái này cũng dạy rằng không có cái ngã, nhưng đồng thời họ cũng chủ trương rằng những yếu tố cơ bản làm nên con người chúng ta – tức là ngũ uẩn, 6 hành tưởng – đều có tự tính, điều mà Đức Phật chưa bao giờ nói. Theo phái Sarvastivada, dù cho ngũ uẩn không chứa đựng bản ngã thật sự của mỗi người, mỗi uẩn (skandha) lại có tự tính riêng biệt.
Khi quan sát vũ trụ, từ những phân tử nhỏ nhất cho tới một ngọn cỏ, một dòng sông, một tia nắng hay một tinh vân xa xôi, chúng ta có thấy điều gì bất biến hay thường hằng? Thân thể của chúng ta không bất biến, mà giống như một dòng sông tế bào không ngừng trôi chảy, và mỗi tế bào trong thân thể chúng ta sinh và diệt trong từng khoảnh khắc. Do đó, không có cái ngã, không có cái gì bất biến, mà chỉ có sự tiếp nối. Dòng sông chảy mãi, làm mới chính mình mãi mãi. Chúng ta không thể tắm hai lần trong một dòng sông và dòng sông không thể tiếp nhận chúng ta hai lần vì khi trở lại với dòng sông, chúng ta đã không còn như trước nữa, đã là một người khác. Không chỉ có thân thể mà tất cả các hiện tượng đều vô thường và không có tự tính riêng biệt. Trong Tâm kinh, Bồ tát Quán tự tại đã dạy điều này cho ông Sariputra (Xá Lợi Phất). Mọi hiện tượng đều có tính Không, đều không có tự tính riêng biệt cả trong không gian lẫn thời gian. Khi hiểu được rằng chúng ta không có cái ngã, nhưng lại vẫn cho rằng ngũ uẩn có tự tính, chúng ta chỉ mới lĩnh hội được phân nửa lời dạy của Đức Phật”
                          (The Other Shore, Thích Nhất Hạnh, tr. 42, 43, 45)
 
Tác phẩm “The Heart Sutra Explained” của Donald S. Lopez Jr.:      

                                                                               Huỳnh Duy Lộc

Không có nhận xét nào: