NGUỒN
GỐC TÊN HÀ NỘI
Sau khi hạ Thăng Long / Rồng bay xuống Thăng Long/ Thịnh
Vượng...vì tham vọng dòng họ Nguyễn Phước... làm Vua tới 500 năm ở Huế, vua
Minh Mạng hạ tiếp Cố Đô xuống là tỉnh Hà Nội (1831), nghĩa là "trong
sông".
Năm 1904 Toàn
Quyền Đông Dương (Pháp) lập tỉnh Hà Đông
(tên cũ nôm na là tỉnh Cầu Đơ, Phúc Yên là tỉnh Cà Lồ, Xứ Mường / Hòa Bình tên cũ là tỉnh Bờ (sông
Đà là sông Bờ). Tỉnh Cầu Đơ ở phía tây Hà Nội, nhưng khi đặt "tên chữ"
(do các Nhà Nho hiến kế) là mượn từ Trung Quốc xuất xứ từ câu trong sách Mạnh Tử
/ thế kỷ 3 Tr.cn "Hà Nội hung tắc dĩ
kỳ dân ư Hà Đông" nghĩa là
"nếu Hà Nội bị tai họa thì đưa dân về Hà Đông” / lánh nạn, và đưa thóc từ
Hà Đông về (tiếp tế) cho Hà Nội với ý
hai nơi ở gần nhau hỗ trợ cho nhau...
Ở bên Tàu thì phía bắc sông Hoàng Hà gọi là đất Hà Nội, phía nam là Hà Ngoại. Vùng
đất Hà Nội ứng với tỉnh Hà Bắc. Lại do sông Hoàng Hà tới địa đầu tỉnh Sơn Tây
(Tàu) ngày nay chảy theo hướng Bắc- Nam, trở thành ranh giới tỉnh Thiểm Tây và
Sơn Tây. Sơn Tây ở phía đông nên gọi là đất Hà Đông, còn Thiểm Tây là Hà Tây.
* SỰ TÍCH
"SƯ TỬ HÀ ĐÔNG" : Nhà thơ Tô Đông Pha (Tô Thức) một danh sĩ đời Tống
nhân một buổi đến chơi nhà bạn là Thầy đồ Trần Quý Thường (Trần Tạo), một Phật
tử rất hiền nhưng có vợ là Liễu thị rất ghen tuông... Nhà thơ đùa bạn bằng một
bài Tứ tuyệt :
Thủy
tự Long Khâu cư sĩ hiền
Đàm
không thuyết pháp dạ bất miên
Hốt
văn Hà Đông sư tử hống
Trụ
trượng lạc thủ tâm mang nhiên
Tạm dịch :
Ai
hiền bằng Thầy đồ Long khâu
Đọc
KInh thuyết pháp suốt đêm thâu
Bỗng
nghe Sư Tử Hà Đông rống
Kinh
hoàng bỏ gậy rớt nơi đâu ?
Tô Đông Pha mượn câu thơ của Đỗ Phủ "Hà Đông nữ nhi thân tính Liễu"
(cô gái Hà Đông người họ Liễu) gắn vào chuyện ghen tuông của vợ bạn cũng họ Liễu.
Hà Nội
30-7-2018
NGUYỄN KHÔI
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét