Nhà thơ Nguyên Lạc
BÀI “ĐỌC TẬP THƠ BẤT TƯƠNG PHÙNG, KHÔNG TIN...”
I. NHỮNG TRÍCH ĐOẠN
Tình cờ đọc được bài “Đọc Tập
Thơ Bất Tương Phùng, Không Tin Của Phạm Hiền Mây” của nhà bình thơ Trần Trung Thuần thấy hay hay, xin
được ghi ra đây
vài trích đoạn "ấn tượng"
của bài
viết ĐỌC TẬP THƠ...[1]
[ ... Ý tôi muốn mở bài viết hôm nay về thơ Phạm Hiền Mây, qua tập Bất Tương Phùng Không Tin do nhà Nhân
Ảnh ở San Jose, Mỹ,
xuất bản năm 2018, tôi vừa nhận được đầu năm mới, 2019, từ một người gửi ở Tiểu
Bang Nevada, cũng Mỹ. Phạm Hiền Mây thì ở Việt Nam, ngay tại thành
phố Hồ Chí
Minh. Phạm Hiền Mây,
nói theo lối của Xuân
Diệu, mới đã:
đây là Bà Chúa Thơ Lục Bát
Nước Ta! Cả tập thơ Bất
Tương Phùng Không Tin toàn thơ Lục Bát dày tới 250 trang, tổng thể là
100 bài rất dài
hơi.
...
Cuối
năm ngoái và đầu năm nay, tôi có hai cái hạnh phúc: năm ngoái, 2018, nhận tập Lục Bát Tản Thần của Nguyễn Hàn Chung gửi cho từ Texas, Mỹ, năm nay, 2019, nhận tập Bất Tương Phùng
Không Tin của Phạm Hiền Mây
(do ai) gửi cho từ Nevada. Trước
hết là tôi Biết Ơn bạn bè luôn luôn chúc tôi có hạnh phúc, sau là Biết Ơn hai tác giả đều "chuyên khoa" làm
thơ Lục Bát,
theo cách định nghĩa của
Nguyễn Du.
Thơ Lục Bát
của Nguyễn Hàn
Chung là loại thơ có
tư cách Nguyễn Hàn
Chung: Nói thẳng, nói
thật, nói
tuột luốt cái
tư duy có trong đầu mình,
trong bụng mình,
không đụng hàng
ai hết...thỉnh thoảng có
giống giống chút
thôi bởi không
dè...người ta (Nguyễn thị Hoàng
Bắc, Sơn Núi,
Bùi Giáng...) lại có
tư duy như Nguyễn Hàn
Chung, không khéo mà thành Công Duy...(như chữ Tư Sản đã thành Công Sản vậy). Thơ Nguyễn Hàn
Chung: Vui và Tuyệt Cú
Mèo (dùng chữ Tuyệt Tác
thì lễ phép
hơn nhỉ?).
Thơ Lục Bát Phạm Hiền Mây...có thể "trùng thanh" nhiều người (toàn bậc thượng thừa) như Hồ Dzếnh, Trân
Huyền Trân,
Nguyễn Du, Huy Cận, Cung
Trầm Tưởng..., có thể "trùng ý" nhiều người (toàn thể ai...hay yêu và hay buồn). Cái tài của Phạm Hiền Mây là làm thơ Lục Bát hay quá và đều tay quá, không chỉ một tập thơ dày cộm này, Bất Tương Phùng Không Tin! Phạm Hiền Mây có một đứa con thật mà có tới ba đứa con tinh thần, và
chắc không
ngừng ở số ba!
...
Bây giờ tới chuyện Phạm Hiền Mây,
không khen là tôi đắc tội
(không phải Phạm Hiền Mây đẹp mà tôi ve vãn). Tôi tin nếu Xuân Diệu còn sống thì Xuân Diệu cũng bái phục Phạm Hiền Mây như Xuân Diệu từng làm điều đó với Hồ Xuân Hương, Bà Chúa Thơ
Nôm. Dù tôi "phát biểu":
Phạm Hiền Mây Là Bà Chúa Thơ Lục Bát, hơi hướng Xuân Diệu, nghĩ có sao đâu? Có thể có người bảo tôi "ninh tinh",
thì cứ lý
lụn đi nào,
coi ai lụn bại, ai thành
công. Nếu "kết lụn"
thua nghiêng về tôi, tôi sẽ méc Má tôi: tại Má sinh con ở Nam Bộ...phận!
...
Tôi không có nhận xét nào thêm để dài dòng về một thi tài độc đáo là Nữ Thi Sĩ Phạm Hiền Mây. Chuyện của Phạm Hiền Mây qua thơ (Tôi chỉ biết thơ, thú thật hổng biết Thơ Ca hay Thi Ca nghĩa là
làm sao?). Tôi coi Phạm
Hiền Mây như một đóa hoa mai. Nhất sinh đê thủ, rồi. Tôi coi Phạm Hiền Mây là Bà Chúa, tôi nghĩ
Chúa Trịnh, Chúa
Nguyễn không
bắt lỗi tôi
Tôi không còn gì để nói thêm! ](Trần Trung Thuần)
1. Đọc lời khen của nhà bình thơ Trần Trung Thuần, tôi chợt nhớ lại
bài
thơ
“Lời mẹ dặn” của Phùng Quán:
Lời mẹ dặn
Phùng
Quán
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không
nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không
nói ghét thành yêu…
2. Đây là vài ý nghĩ của các bạn tôi khi
đọc bài
khen thơ trên:
- Chưa từng thấy có lời khen "tuyệt vời" như vầy
- Quảng
cáo tập thơ cô thi sĩ trẻ quá siêu!
THƠ CỦA "BÀ CHÚA THƠ LỤC BÁT"
Theo lời giới thiệu: "Phạm Hiền Mây,
nói theo lối của Xuân
Diệu, mới đã:
đây là Bà Chúa Thơ Lục Bát
Nước Ta!"(Trần
Trung Thuần), tôi mạo muội ghé qua "vương
cung" (Facebook) của "bà chúa" để thưởng thức các bài thơ tuyệt với như lời "quảng cáo".
Thấy gì?
-- Đúng là nơi "vương giả" chỉ dành riêng cho thiểu số tót vời, giới thượng lưu.
Này nhé: - Dầy đặc trong các bài thơ những cụm từ "hàn
lâm": Hư không, vô ngôn,
miên khê, miên
trường, miên du,
uyên nguyên,
phiêu bồng, địa đàng, thiên cổ, cát
bụi, nguyên sơ, phù vân, cố thổ, tà huy, tà dương và nhiều nhiều nữa.
Gặp ở đây nhiều chữ của Phật giáo, của các triết gia, đặc
biệt là
của thi sĩ Bùi
Giáng những chữ
mà ông thường dùng
một cách
nhuần nhuyễn.
I. Phân tích một số chữ tiêu biểu được dùng trong thơ
Xin tạm phân tích một số chữ của "bà chúa" Phạm Hiền Mây dùng
trong các câu
thơ. Có gì không đúng xin bà
giảng dạy thêm.
- Miên trường
Tiếng Hán Việt (H) giống như tiếng Anh (E) tính
từ đứng trước danh từ, ngược với tiếng Việt(V).
Thí dụ: Bạch mã (H) White horse (E) Ngựa trắng (V)
Do đó "miên trường" không phải là giấc ngủ dài, mà là dài rất dài: Trường = dài;
miên = dài (miên viễn).
Áp dụng vào các câu thơ:
"thiên lý dặm miên trường mù không" ̣Phạm Hiền Mây (PHM)]
(thiên lý dặm = ngàn dặm đã dài rồi, thêm
miên trường = rất dài
vào, ôi!)
"mới cơn bụi cát miên trường đêm say"(PHM)
"ừ anh mật ngọt miên trường giọt môi"(PHM)]
tôi thấy chúng sao ấy, nếu không nói là vô nghĩa!
- Tà dương ̣
Tà dương ̣hay tịch dương: Mặt trời lúc sắp lặn, có nghĩa là buổi chiều gần tối.
Câu thơ: "có em chiều xuống tà dương" (PHM) dư chữ "chiều xuống"
- Vô ngôn
Vô ngôn là cụm từ của Phật giáo với nghĩa không lời. Sóng tràn thì phải động mới tràn, nghĩa là có âm
thanh: Xem như có lời.
Vậy câu thơ: "sóng tràn vô ngôn" thi sĩ muốn nói về điều gì? Vô ngôn?
- Biển ngâu
Trong "mai đời dẫu khóc biển ngâu" có hai chữ "biển ngâu"
Sự tích Ngưu Lang - Chục Nữ gặp nhau ngày mùng 7 tháng 7 âm lịch, ngày mưa Ngâu (Ngưu) sụt sùi. Bắc cầu "ô thước" qua "sông" Ngâu chứ đâu có "biển" Ngâu: Biển làm sao bắc cầu. Lại nữa, dãi ngân hà giống như dòng sữa, nhìn như dòng sông chứ đâu phải khắp bầu trời mà gọi là biển?
- Miên khê
Miên khê là khe nước đứng yên (ngủ), giang đầu là đầu nguồn sông lớn... vậy câu sau đây có nghĩa là gì?
"giang đầu nguyệt bóng miên khê"
Và "nguyệt bóng" là gì tôi tìm từ điển không thấy, xin bà chúa giải thích cho
biết?
Hai chữ "nguyệt bóng" này làm tôi nhớ đến "sự đảo chữ"
II. Bàn sơ lược về đảo chữ
Tôi thấy "bà chúa thơ" rất "sính"
đảo chữ. Mời đọc những chữ này:
Nắng vạt,
hoặc nghi, phai phôi, nguyệt bóng, trùng
muôn... nhiều nhiều nữa.
Thí
dụ:
"hư không
níu trùng muôn bớt dài"
Trùng muôn nghĩa
là gì vậy nữ sĩ?
Tôi thấy đa số những cụm từ đảo trên
gợi ra nhiều vấn đề.
Bà chúa thích "đố chữ"?
Xin có vài ý kiến qua trích đoạn dưới đây:
[...Phép đảo chữ (đảo từ):
Đảo: Ngược, đảo ngược.
-- Trong nói đảo người ta thường dùng lối chuyển đổi trật tự, vị trí
các chữ trong một nhóm
chữ (nhóm
từ)
-- Ta phận biết được ba trường hợp trong phép
đảo chữ:
1. Chữ mới khi được đảo có
thể xem như cùng
nghĩa với chữ trước khi đảo:
Ngồi ngủ/ ngủ ngồi.
Đứng ăn/ ăn đứng
Khổ đau / đau khổ...
2. Chữ mới khi được đảo sẽ "vô
nghĩa", nghĩa là không thể nào đảo
được.
Chữ mới khi được đảo sẽ "vô
nghĩa", nghĩa là không thể nào đảo được.
Độc đáo / đáo độc: Đáo độc vô
nghĩa
Độc lập/ Lập độc: Lập độc vô
nghĩa
Tà huy / huy tà: Huy
tà vô nghĩa
- Khờ khạo / khạo khờ: Khạo khờ vô nghĩa.
- Vừa vặn / vặn vừa: Vặn vừa vô
nghĩa.
Muôn trùng / trùng
muôn: Trùng muôn vô nghĩa
câu thơ:
Hư không níu trùng
muôn bớt dài
(PHM): vô
nghĩa.
Các thi sĩ nên xét lại! Nếu có nghĩa xin các thi sĩ
cho biết tên
từ điển Việt nào?
3. Chữ mới khi được đảo khác
nghĩa với chữ trước khi đảo,
nghĩa có khi trái nghịch...]
(Đảo Chữ - Nguyên Lạc)
Sẵn dây xin được ghi ra trích đoạn về ngôn ngữ thơ mà tôi tâm đắc của Lê Hữu
[... Ngôn ngữ thơ là chữ nghĩa, hình ảnh, ý tưởng … chỉ có ở trong thơ hơn là trong đời thực. Có điều, khi đọc, nghe, ta cảm thấy như là
có thực, có
ý nghĩa và chấp nhận được;
hơn thế nữa, lại còn rung cảm vì thứ ngôn ngữ ấy. Bất kỳ cách diễn đạt nào làm cho người ta đọc ra thơ, nghe ra thơ, hiểu ra thơ muốn “nói”
điều gì,
đều là
ngôn ngữ thơ.
Chữ nghĩa cần có sự phát minh, sáng tạo hơn là lặp lại rập khuôn người đi trước. Những vô thường, vô vi, phù vân, phù ảo, hư ảo, hư không, tà huy, miên
trường…
mà
người làm
thơ cố đưa vào
bằng được trong thơ mình
thường có
một vẻ gì
khập khiễng, gượng gạo
như một kiểu tạo dáng kém tự nhiên, đôi lúc khiến câu thơ tối tăm, khó hiểu.
Thường, thơ khó hiểu thì khó hay; thơ tạo dáng thì khó tạo được cảm xúc.
[Lê Hữu: Thơ lục bát còn, tiếng Việt còn]
III. Cảm nhận hai bài thơ tiêu biểu của "bà chúa thơ lục bát"
1. Hai bài thơ
tiêu biểu
Các bài này đã được phổ nhạc và được rất nhiều thi sĩ "lão
thành" có tiếng khen
(like), tức nhiên nó phải hay và chắc tôi không cố ý chọn lầm.
VẼ EM…
vẽ em
bằng hết đời
sầu
anh tô
lại đẹp từ đầu giấc mơ
từ đầu buổi mắt
xanh thơ
còn
trong veo nắng màu
tơ sợi trời
**
còn
chân gót hát ca lời
vẽ em
anh vẽ mưa rời rợi
đau
tay vời vợi níu
tay nhau
mùa đông hoài gạt lệ dàu dàu vương
**
mùa đông hoài vắng người thương
hoài
thiên lý dặm miên
trường mù
không
vẽ em
bằng hết chờ
trông
đợi anh tịch lặng mênh mông bóng gầy
**
trăng treo cao bóng
lên đầy
tiếng khuya lả tả
trắng bầy rong rêu
trắng dòng lá mục lêu
bêu
vẽ em
anh vẽ vạc kêu
sương
tàn
**
vẽ em
bằng nỗi vui
tràn
anh hoàng hoa xuống cội vàng cánh xương
cội hoàng hoa đóa uyên ương
mây hoàng hoa bến mộng thường vân lâu
**
yêu cho bằng hết bể dâu
sông
anh ru cọ ơ ầu
vẽ em…
.
VÔ CÙNG TRĂM
NĂM…
yêu anh
cuộc
mộng nghìn
trùng
dấu cô
lý bến mịt mùng
xa xăm
gót chân viễn xứ mù tăm
bâng khuâng bờ vắng em nằm chờ mai
**
bâng
khuâng cõi vốn phôi
phai
yêu anh
từ độ chia hai mây
trời
đất mơ gặp gỡ
nhau đời
tạc câu
huyền sử bời bời uyên
ương
**
ghi rằng trời đất vấn vương
mới cơn bụi cát
miên trường đêm
say
yêu anh
yêu
cả gầy tay
hương thơm ngón
thắp em ngày
ái ân
**
hương xanh đôi thắp phù vân
thắp men tình muộn màng
trần gian không
còn gì ngoài gió mùa đông
yêu anh
em
trái tim hồng cánh môi
**
yêu anh
yêu
vĩnh hằng ngôi
chỉ duy nhất một bồi hồi xưa sau
hàng
mi khép lúc giọt mau
rót
riêng em giấc ngủ màu
bao dung
**
như nhiên đã lối về chung
em yêu
anh
rất vô
cùng
trăm năm…
(Phạm Hiền Mây)
2. Vài nhận xét
a. Vài ý đóng góp:
Đây là vài ý của bạn tôi đóng góp khi chúng tôi trao đổi về 2 bài thơ tiêu biểu trên:
-- Người được gọi là " Bà chúa lục bát" có giọng thơ hơi sáo rỗng:
"mùa
đông hoài vắng người thương
hoài
thiên lý dặm miên
trường mù
không
vẽ em
bằng hết chờ
trông
đợi anh tịch lặng mênh mông bóng gầy" (sic)
Các câu khác cũng vướng lỗi gần giống vậy. Ví
dụ:
"còn
chân gót hát ca lời
vẽ em
anh vẽ mưa rời rợi
đau
tay vời vợi níu
tay nhau
mùa đông hoài gạt lệ dàu dàu vương" (sic)
-- Khổ 2:
"Còn chân gót
hát ca lời"
là
ý gì?
"Mùa đông
hoài gạt lệ dàu
dàu vương": Câu này có ăn nhập gì với câu đầu (còn chân gót hát ca lời) của đoạn thơ không? Đã vậy lại vừa thừa vừa thiếu, Thừa cái
kể lể, thở than; thiếu
mất hình ảnh
thương sầu, ly biệt.
-- Khổ 3:
Câu đầu rất ổn, nhưng câu kế vừa thừa lại vừa lang bang.
"Thiên lý" là ngàn dặm rồi, vậy "Thiên
lý dặm" nghĩa là
gì đây?
Lại nữa, "Thiên lý" đã diễn tả được cái cách biệt, cái xa xăm nghìn trùng rồi, lại nối theo hai chữ "miên
trường" (thôi thì cứ hiểu theo ý tác giả "miên trường" là đằng đẵng, là vô cùng) vậy thì cái " thiên lý dặm miên trường" nên hiểu sao đây? (Chữ "hoài" đầu câu là phó từ, 2 chữ "mù không" phía
sau là ngữ động từ mình
tách ra)
-- Hai bài thơ
khác nhau, mỗi bài
đều có
2 chữ "miên
trường"
"hoài
thiên lý dặm miên
trường mù
không"
"mới cơn bụi cát miên trường đêm say"
đúng là đặt ở hai ngữ cảnh khác nhau. Tuy nhiên
xét kỹ thì
hai cụm chữ:
"Miên
trường mù
không"
"Miên trường đêm say"
Giai địêu lập lại, cách dùng lập lại, ý tưởng không khác. Nghĩa là tác giả tự bị TRÙNG TÁC với chính thi phẩm của mình.
[Đỗ Phú]
b. Ý nghĩ riêng tôi:
-- Trước hết xin có ý kiến: Rong rêu và lá mục thường xanh đậm (xanh rêu) hoặc xanh đen chứ không thể nào màu trắng. Làm gì mà "trắng bầy rong rêu"?
-- Theo chủ quan của tôi,
trong con người cái
tôi chia ra hai phía, hay nói một cách
đơn giản là
có hai cái tôi nhỏ:
Cái tôi lý trí và cái tôi cảm xúc:
. Cái tôi lý trí do
lý trí chi phối,
mang tính hơn thiệt, đúng
sai, được thua.v.v.. Trong cái tôi này có chứa cái tôi sợ hãi. Biết rằng mình không thích, biết rằng dối gian... nhưng vẫn phải làm. Cái tôi sợ hãi
này thì có nhiều thi sĩ, văn sĩ XHCN
đã kinh qua và lên tiếng rồi. (Nếu tôi nhớ không lầm là Tô Hoài)
. Cái tôi cảm xúc:
Đây là cái tôi đích thực, cái tôi nhân bản, cái tôi của thương yêu, cái tôi cảm nhận sự thua thiệt, không cần tiền tài,danh tiếng, vân vân và vân vân. Nhà
thơ rất cần cái
tôi này.
Một bài thơ hay khi nào "cái tôi cảm xúc" lên làm chủ, đè "cái tôi lý trí" xuống. Do đó, người ta thường nói: Tình
yêu thường "mù quáng" là vậy. Nghĩa là lý trí "đi chổ khác chơi": Thơ mà chỉ có lý trí, chỉ sắp xếp chữ, không có cảm xúc thì thơ chắc không gây một hiệu ứng nào đối với người đọc, và chắc sẽ bị quên mau .
Hình như tác giả Phạm Hiền Mây đưa cái tôi lý trí lên "đỉnh", đè bẹp "cái tôi thực sự, cái tôi cảm xúc".
Nói như nhà phê
bình Nguyễn Hưng Quốc,
đại khái: - Thơ loại này (lý trí làm
chủ) "Ào ào lá đổ nhưng chẳng thấy mùa thu đâu!: Thơ thiếu vắng" hồn thơ"
Hai chữ "cảm xúc" cũng xuất hiện trong định nghĩa về thơ của William Wordsworth:
"Poetry is the spontaneous overflow of powerful
feelings: it takes its origin from emotion recollected in tranquility”.[3]
"Thơ là sự tuôn trào tự phát của cảm xúc mạnh mẽ, bắt nguồn từ cảm xúc được hồi tưởng trong sự tĩnh lặng"
-- Xin được ghi ra đây vài ý về "thơ mở ngõ"
[... Về thơ mở:
Thơ muốn "hay" phải là
thơ mở, nghĩa là
bài thơ tác giả mở ngõ,
mời độc giả dự phần,
đưa tâm tư của riêng mình vào. Độc giả bây giờ không còn là người bàng quan và sẽ nghĩ rằng thơ viết cho mình,
nên rất thích
thú, thấy bài
thơ hay thêm.
- Xin giới thiệu bài thơ mở của thi sĩ Trần Phù Thế, thi sĩ mời các
bạn gởi tâm
sự riêng
mình vào:
khóc
tuổi thơ
khóc
kiếp người
từ đâu
tiếng khóc
gọi mời nỗi đau?
khóc
là cười chẳng được
sao?
(khóc
cười - Trần Phù Thế)...]
[Vài Khái Niệm Về Việc Dùng Chữ Trong Thơ - Nguyên Lạc]
Một bài
thơ hay khi ta cảm thấy hình
như thơ ấy viết riêng
cho ta, thấy có cuộc đời riêng của ta trong đó. Thơ mở rộng cánh cửa để ta đặt cuộc đời riêng mình vào. Nếu tất cả đã được nói
ra hết rồi thì
độc giả bây
giờ chỉ là
người bàng
quan và từ đó
nghĩ thơ viết cho ai chứ đâu
phải cho mình; do đó thơ sẽ bớt hay.
Trong các bài thơ
của Phạm Hiền Mây,
hình như thi sĩ đã nói lên "hết tất
cả"rồi, không còn gì
để độc giả đóng
góp thêm được nữa. Không còn "ngõ"
nào để vào "lâu đài" thơ "Bà Chúa", chỉ đứng ngoài cửa
nhìn
vào. Hay nói chính xác
hơn, thi sĩ Phạm Hiền Mây là ông
thầy đang "giảng đạo", độc
giả chỉ biết lắng nghe và tuân theo. Hoặc như Trần Trung Thuần đã nói: Phạm Hiền Mây là "Bà Chúa thơ lục bát
VN",
nên "Bà Chúa" đang ban "huấn từ" cho người dân, đã đầy đủ rồi phải tuân theo, không được ý
kiến. Chữ nghĩa ơi là chữ nghĩa!
Qua trên là những cảm nhận của tôi và bạn tôi về các bài thơ tiêu biểu của "Bà Chúa thơ lục bát VN", giờ xin thử đọc thơ của "người dân dã".
THỬ ĐỌC VÀI BÀI LỤC BÁT CỦA "NGƯỜI DÂN DÃ"
Xin thử đọc vài bài thơ mà theo tôi "cái tôi đầy cảm xúc" làm chủ: Thơ của "người dân dã", thi sĩ Quỳnh Nga, người tôi chỉ tình cờ biết qua Facebook.
Đây là vài bài thơ
với lời lẽ giản dị, đọc hiểu ngay,
không
"hàn lâm", không "đố chữ", khỏi cần chạy tìm từ điển:
CÁI ĐÊM TRĂNG MỎNG EM TỪ TÔI NGHIÊNG
Cái đêm mưa gió ướt đầm
Cái
đêm tôi nhớ điếng bầm ruột đau
Cái
đêm ta nợ nần nhau
Cái
đêm ân ái mùa sau để dành
Cái đêm phiến nhớ long lanh
Cái
đêm tơ lụa mong manh khôn
cùng
Cái đêm em chạm ngại ngùng
Cái đêm tôi đợi cháy bừng đêm tôi
Cái đêm hôm ấy phải rồi
Cái
đêm cánh gió gọi trời sang thu
Cái
đêm em tóc hương nhu
Cái đêm trăng mỏng em từ tôi nghiêng...
GÕ CỬA THÁNG GIÊNG
Tôi về gõ cửa tháng giêng
Hỏi ai giấu tuổi hồn nhiên đâu rồi?
Tháng
giêng tôi mở cửa tôi
Tìm mong gặp lại một thời chân quê
Tháng giêng tôi đón tôi về
Áo vàng hoa với đường đê hoa vàng
Nghe hồn quê rộng thênh thang
Nghe tôi về giữa nồng nàn yêu thương!
(Quỳnh Nga)
***
Đó là thơ lục bát của
hai người, "bà chúa" và "người dân
dã", tự các
bạn cảm nhận
và phán đoán.
Nguyên Lạc
.....................
Ghi chú:
[1] ĐỌC TẬP THƠ BẤT
TƯƠNG PHÙNG,
KHÔNG TIN CỦA PHẠM HIỀN MÂY.
[2]. Tôi đồng ý
với Trần C. Trí
không dùng chữ “từ”, vì
nó chính là cội rễ của tất cả những
“từ” độc hại khác. Xin xem:
"từ và chữ" - Trần C. Trí
[3] (William Wordsworth Quotes, Brainy Quote,
brainyquote.com)
1 nhận xét:
Nguyên Lạc là dân "đại gia", mua về rất nhiều của ngon vật lạ bày la liệt trên bàn. Tiếc thay, tên đầu bếp của anh lại chế biến, nấu nướng hơi bị dở.
Đăng nhận xét