Bài viết này nhằm để trả lời một số câu hỏi mà bạn bè
ngoài giới văn chương hỏi tôi.
NHÀ VĂN KHÔNG ĐƠN ĐỘC MÀ NHÀ PHÊ BÌNH MỚI ĐƠN ĐỘC
Tôi không muốn viết tiếp để phản biện lại những vấn đề
do một bài viết ẩn danh được cho là của nhà văn Uông Triều, mà tôi đã kiểm tra
và có kết quả là bài viết đấy do AI viết. Chẳng lẽ tôi lại mất công phản biện với…
trí tuệ nhân tạo?
Tuy nhiên, cái dở, yếu, kém của truyện ngắn “Trăm Ngàn” vẫn còn đó, rành rành ở những
câu chữ. Do vậy tôi vẫn tiếp tục nói về truyện ngắn này ở phương diện nội dung
và nghệ thuật cũng như cách độc giả tiếp nhận tác phẩm này. Tôi cũng không nói
về tác giả trên phương diện cá nhân. Đối với tôi, điều quan trọng đối với người
viết văn chính là tác phẩm. Tác phẩm là “căn
cước văn chương” của họ. Còn chuyện họ có tấm căn cước đó như thế nào, vì
sao được tôn vinh, khen ngợi bằng những lời có cánh, được một vài nhà văn bênh
vực thì đó là chuyện cá nhân riêng tư giữa họ với nhau. Tôi không để cho những
yếu tố đó ảnh hưởng đến cách nhìn nhận về tác phẩm “Trăm Ngàn”.
Trong các cuộc gặp gỡ, hội thảo, giao lưu, một câu nói
mà tôi thường nghe là các nhà văn hay nói rằng con đường sáng tạo của họ là con
đường đơn độc. Nhưng từ kinh nghiệm của bản thân tôi, nhà văn không đơn độc, mà
làm nhà phê bình (theo đúng khái niệm “nhà phê bình”) mới là đơn độc, nhất là
khi ý kiến của mình có thể không “thuận” với một số người. Chính vì thế, tôi
không có nhiều bạn bè trong giới văn chương và thậm chí có thể nói là rất ít.
Tôi cũng chưa từng bao giờ nói với bạn bè văn chương của tôi về những câu chuyện
xung quanh chuyện “phím nghiệp” của mình. Bởi vì tôi hiểu rõ và sâu sắc rằng những
quan điểm cá nhân của mình chỉ thuần túy là ý kiến chuyên môn và tôi luôn đề
nghị các bạn bè văn chương của tôi nên… tránh xa những chuyện “phím nghiệp” này
của tôi. Mỗi người trong số chúng ta đều đã phải gánh một “thập tự giá” của đời
mình rồi. Hãy nghĩ cho nhau và hãy tự giải quyết “thập tự giá” của đời mình
thôi.
Văn chương đã từng là một trong những niềm vui, là sở
thích của tôi từ khi còn rất nhỏ. Chỉ là bây giờ niềm vui ấy không còn vẻ thuần
khiết, lấp lánh như ban đầu. Nó như một món trang sức mạ vàng bóng bẩy, theo thời
gian thì bong tróc và lộ dần ra lớp kim loại xấu xí bên trong. Nhưng chính vì
cái vẻ bóng bẩy đấy, có biết bao nhiêu người vẫn lao vào như thiêu thân, thậm
chí bằng mọi giá và phải trả giá. Thậm chí văn chương còn khiến cho có những
người tin rằng nó không chỉ giúp họ mưu sinh, mà còn mang lại cho họ một thứ
quyền lực, thậm chí là thứ quyền lực chi phối một số người khác dưới danh xưng
đệ tử, học trò.... Cũng không thiếu người nhờ văn chương mà họ từ một người vô
danh (dù có thể có tiền của), nay được nhắc tên trên báo chí, được nhận những lời
khen. Vầng hào quang ấy, dù là thật hay là ảo, đều dễ gây nghiện. Mà đã nghiện
rồi thì đó là một thứ ma túy khó bỏ và họ sẽ làm mọi cách để duy trì nguồn ma túy
đó. Nhưng đó đều là chuyện cá nhân và giữa những cá nhân với nhau. Ngoài kia
thì mặt trời vẫn mọc, sóng biển vẫn vỗ bờ, và tôi, một kẻ mỗi khi buồn chán thì
lại đi tìm vui bằng vài lời “phím nghiệp” trên mạng rồi sau đó bỏ đi chơi, lúc ấy
tôi không còn là nhà phê bình nữa, tôi là một du nữ!
“TRĂM NGÀN” CỦA NGÔ TÚ NGÂN, TRĂM NGÀN CÁCH ĐỌC NHƯNG
CÁCH ĐỌC NÀO NHIỀU NHẤT?
Để trả lời câu hỏi này, trên VNExpress đã có một cuộc
thăm dò ý kiến về truyện ngắn “Trăm Ngàn”
của Ngô Tú Ngân, đến thời điểm này (10h30 ngày 28.7.2025) có kết quả như ảnh chụp
ở dưới.
Ở đây, tôi phải nói về lý thuyết tiếp nhận văn học, hay mỹ học tiếp nhận, để lý giải xung quanh kết quả này.
MỘT VÀI KHÁI NIỆM VỀ LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN
Nghiên cứu văn học dưới góc nhìn của độc giả xuất hiện
từ vài chục năm nay, thường được biết đến với cái tên chung phổ biến là
“Reception theory” (Lý thuyết tiếp nhận). Xuất hiện ở Đức với tên gọi “Rezeptionsästhetik”
(Mỹ học Tiếp nhận) hay còn gọi là trường phái Konstanz (theo tên trường đại học
Konstanz) với hai nhà lập thuyết tiêu biểu là Hans Robert Jauss (1921- 1997) và
Wolfgang Iser (1926 - 2007). Ở Mỹ thường được gọi là “Reader Response
Criticism” (Phê bình phản hồi của độc giả) với những tên tuổi như Stanley Fish,
Norman N. Holland, Louise Rosenblatt, Jonathan Culler…
Ở đây tôi muốn nhìn góc độ lý thuyết của Wolfgang Iser
để nói về phản ứng của độc giả. Cụ thể, lý thuyết của Wolfgang Iser được thể hiện
qua nhiều tác phẩm của ông, nhưng hai tác phẩm “Der Akt des Lesens: Theorie
ästhetischer Wirkung” (Hành động đọc: Lý luận phản ứng thẩm mỹ, xuất bản năm
1976) và “Das Fiktive und das Imaginäre. Perspektiven literarischer
Anthropologie” (Hư cấu và tưởng tượng: ranh giới của nhân học văn học, xuất bản
1991) là tập trung nhiều vào nghiên cứu phản ứng của độc giả.
Vấn đề trọng tâm mà Iser nghiên cứu là mối quan hệ giữa
văn bản và độc giả. Ông muốn trả lời cho câu hỏi nghiên cứu: Văn bản thu hút độc
giả bằng những yếu tố nào? Độc giả phản ứng như thế nào khi đọc văn bản và tại
sao lại phản ứng như vậy?
Lý thuyết phê bình phản hồi của người đọc đúng như tên gọi, “response” trong tiếng Anh là sự phản hồi, hưởng ứng, hồi đáp… “Reader response theory” là lý thuyết nghiên cứu về những sự phản hồi của người đọc khi đọc các tác phẩm văn chương. Từ trước đến giờ, các lý thuyết nghiên cứu văn học truyền thống chú trọng vào nghiên cứu tiểu sử nhà văn, hoàn cảnh lịch sử khiến tác phẩm ra đời, nghiên cứu nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn học, nghiên cứu các khuynh hướng, trường phái văn học… Nhưng từ thập niên 70 của thế kỷ XX, người đọc tác phẩm trở thành một yếu tố nghiên cứu quan trọng.
Khi cùng bàn luận về một tác phẩm, luôn có những ý kiến
khác nhau. Đó là lẽ bình thường. Các con số là tuyệt đối nhưng đặt nó trong mối
tương quan với con người thì sự cảm nhận lại không giống nhau. Có thể đối với một
người, 1000 cuốn sách là rất nhiều, đối với người thứ hai, là vô cùng nhiều,
nhưng đối với người thứ ba là bình thường và đối với người thứ tư thì là ít.
Các con số đo đếm được đã là như vậy, huống chi là các cuốn sách hay tác phẩm
văn học. Nếu trong đời sống xã hội, mọi hành động con người đều phải tuân thủ
theo một số quy tắc nhất định, thì trong tư duy, trong cảm nghĩ, con người được
tự do tuyệt đối. Nhưng thể hiện tư duy, cảm nghĩ ấy ra ngoài như thế nào thì lại
do chính con người chọn lựa để cho phù hợp với xã hội đang sống và ngược lại,
chính những tiêu chuẩn của xã hội đang sống cũng tác động đến sự lựa chọn đó.
Nhận xét về sách hay tác phẩm văn học cũng là một
trong những hoạt động tư duy tự do tuyệt đối. Đọc một tác phẩm, chúng ta có thể
vừa suy nghĩ, vừa cảm nghĩ về nó. Mà con người luôn tồn tại như những cá thể độc
lập trong tư duy (dù xã hội vẫn tồn tại không ít người nghĩ theo tư duy của người
khác). Cùng một tác phẩm có thể có vô vàn ý kiến khen chê khác nhau, bởi lẽ các
suy nghĩ của con người có thể rất khác nhau. Cho nên chúng ta có ý kiến khác
nhau về một tác phẩm cũng là lẽ thường tình.
Chính vì quan tâm đến sự đánh giá khác nhau của người
đọc đối với tác phẩm văn học, nên trong nghiên cứu văn học, có một lĩnh vực gọi
là lý thuyết tiếp nhận văn học. Tiếp nhận văn học sử dụng nhiều công cụ nghiên
cứu của xã hội học và xét trên một phương diện nào đó, nó gần gũi với ngành
nghiên cứu xã hội học văn học. Trong tiếp nhận văn học, có nhiều nội dung khác
nhau, chẳng hạn như đề cập đến quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng như là cơ sở
lý luận của mối quan hệ giữa sáng tác và tiếp nhận văn học. Hoặc là xét đến mối
quan hệ theo trình tự: tác giả - tác phẩm - người đọc với những khái niệm
chuyên biệt như: người đọc, người tiếp nhận, người đọc hiện thực, người đọc lý
tưởng, người đọc hư tưởng v.v… Tiếp nhận văn học cũng đề cập đến vai trò tích cực
của người đọc, sự tương tác giữa người đọc và tác phẩm, các kiểu tiếp nhận tác
phẩm, các cấp độ tiếp nhận, các điều kiện tiếp nhận, tiếp nhận văn học như là một
quá trình…
Tác phẩm văn học được tác giả sáng tác không phải chỉ
để dành riêng cho mình mà để dành cho một hoạt động đặc biệt, tức là hoạt động
đọc của con người. Người đọc tiếp nhận tác phẩm văn học với những động lực và
nhu cầu khác nhau. Phổ biến nhất là nhu cầu giải trí, sau đó là đến nhu cầu hiểu
biết, nhu cầu phát hiện, đánh giá, nhận xét, bình luận. Do vậy, khi tiếp nhận
văn học người đọc thường luôn ở thái độ chủ động, tích cực và có quyền lựa chọn
tác phẩm này hay tác phẩm kia.
Tính chủ quan luôn là tiền đề cho mọi hoạt động đọc của
con người. Người đọc tiếp nhận tác phẩm với những tâm trạng buồn vui khác nhau,
có trình độ văn hóa khác nhau, xuất thân từ những nghề nghiệp khác nhau, có độ
tuổi và giới tính khác nhau, có thái độ khác nhau và ở sống những thời điểm
khác nhau trong lịch sử. Kết quả là có bao nhiêu người đọc một tác phẩm, thì sẽ
bấy nhiêu cách tiếp nhận. Người khen, kẻ chê, người thì hứng thú với chi tiết
này, người thì khó chịu với chi tiết kia. Có những cách tiếp nhận sâu sắc, cũng
có những cách tiếp nhận hời hợt, nhưng nói chung, mọi người đều có quyền xây dựng
những cách hiểu riêng của mình về tác phẩm. Và rất nhiều khi, các cách hiểu
riêng ấy lại trùng hợp với nhau. Khi ấy tác phẩm văn học thường được số đông đồng
ý cho là hay (hoặc dở). Mặt khác, khi đến với một tác phẩm văn học, người đọc
thường có sẵn một "tầm đón nhận", tức là những thị hiếu có sẵn trước
khi đọc một tác phẩm nào đó, phụ thuộc vào sự hiểu biết, tri thức cá nhân, tình
cảm, quan niệm, lứa tuổi, giới tính... Do vậy sẽ xảy ra hiện tượng là thấy cuốn
sách này hay vì phù hợp với tầm đón nhận của mình, hoặc thấy không hay, thấy
lúng túng vì xa lạ với tầm đón nhận sẵn có. Nhưng tầm đón nhận cũng sẽ thường
xuyên thay đổi thông qua việc đọc tác phẩm văn học, cho nên ở những thời điểm
khác nhau, người đọc có thể có những đánh giá khác nhau về cùng một tác phẩm.
Có một quan niệm tồn tại ở một số nhà văn và độc giả
Việt Nam, còn sâu sắc đến mức nào thì có lẽ cần một cuộc khảo sát điều tra xã hội
học văn học cho rõ ràng hơn, đó là quan niệm cho rằng nghề văn là một nghề cao
quý và đặc thù hơn những nghề nghiệp khác. Tôi vừa đồng ý vừa không đồng ý với
cách nhìn này. Tôi cho rằng nghề văn là một nghề có tính chất lao động đặc thù
do đó là lao động nghệ thuật, nhưng đó cũng là một nghề nghiệp như bao nhiêu
nghề khác và khi nhà văn đã muốn công bố tác phẩm của mình ra công chúng để đổi
lấy lợi ích vật chất (tiền bạc) và tinh thần (danh tiếng), thì nhà văn cũng sẽ
phải chịu sự phán xét của công chúng về sản phẩm của mình. Nhưng văn chương thì
không như định mức KPI để đánh giá, cũng chẳng có chuẩn mực riêng để đánh giá
cho mỗi tác phẩm riêng. Cho nên việc đánh giá khác nhau về tác phẩm hay sản phẩm
của nhà văn là điều hết sức bình thường với đủ mọi kiểu “tầm đón nhận” của độc
giả. Nhà văn phải biết và học cách chấp nhận những đánh giá khác nhau đấy để hiểu
thêm về thị hiếu đọc của công chúng và có thể từ đó mà điều chỉnh lại cách viết
của mình trong những tác phẩm sau. Khi nhà văn đã bán tác phẩm, nhà văn cũng chỉ
là một người đi tìm khách hàng cho mình và xin đừng nhân danh nghề của mình là
cao quý hơn người để coi thường khách hàng. Còn nếu không làm được điều đó,
không viết được cho khách hàng (độc giả) thì nhà văn chỉ có cách là đừng bán
tác phẩm nữa.
Vậy tại sao một số nhà văn và độc giả lại có tư duy
cho rằng nghề văn là một nghề “hơn người” như vậy? Đây là do ảnh hưởng từ suốt
chiều dài lịch sử văn chương truyền thống của Việt Nam nói riêng và ở nhiều nước
phương Đông nói chung. Khi ấy quan điểm “sĩ nông công thương” phổ biến vì một lẽ
đơn giản: những ai biết chữ thì đều có cơ hội đi thi, đỗ đạt, ra làm quan hay
ít ra cũng làm thầy đồ dạy học. Thời trung đại, có mấy người biết chữ Hán, chữ
Nôm? Và ai là người làm thơ, làm văn? Họ toàn là quan lại, vua chúa, hay ít ra
cũng là nhà nho. Họ được người dân kính nể, tôn trọng có phải chỉ vì họ biết chữ,
họ là nhà văn, nhà thơ đâu, mà còn vì địa vị xã hội cao ngất ngưởng của họ so với
dân đen. Nếu nói nhà thơ có tước và chức Du Đức Hầu, Cần Chánh điện học sĩ, Lễ
bộ Hữu Tham tri, người thời nay mấy ai biết đấy là Nguyễn Du. Nếu nói nhà thơ
có chức Tham tri bộ Binh, Tổng đốc, Phủ doãn phủ Thừa Thiên, người đời nay mấy
ai biết đó là Nguyễn Công Trứ? Thơ văn của họ viết để làm gì? Chỉ có hai mục
đích: Một là văn quan phương, để phục vụ cho triều đình, công việc như Nguyễn
Trãi viết “Đại cáo bình Ngô”. Hai là để “văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”, hay
cùng lắm là “mua vui cũng được một vài trống canh” như Nguyễn Du kết thúc “Truyện
Kiều”. Có ai dùng văn chương để bán đâu, bởi vì độc giả của họ cũng chính là bạn
bè xung quanh họ, là tri âm, tri kỷ của họ. Họ làm văn, làm thơ còn để thù tạc,
tặng nhau, đáp lễ… Mà có muốn bán cũng khó lòng vì thời đó có mấy độc giả biết
chữ đâu. Độc giả của họ lúc đó cũng là những độc giả cùng tầng lớp, cùng tầm
đón nhận, thậm chí có những mối quan hệ quen biết, qua lại ngoài đời. Sự tiếp
nhận tác phẩm, sự đồng cảm với những phát ngôn của nhà văn cũng dựa trên sự tri
âm, tri kỷ, thấu hiểu lẫn nhau, hiểu được và đồng cảm với “cái tầm” của nhau.
Sang đến thế kỷ XX, cùng với văn minh phương Tây du nhập,
sự lớn mạnh chính thống của chữ quốc ngữ, sự hình thành và phát triển các đô thị
cùng các tầng lớp thị dân v.v… (những điều này đã nói nhiều trong các sách lịch
sử văn học) thì chúng ta phải thừa nhận rằng các nhà văn đã không còn lối sáng
tác như thời trung đại. Làm gì còn thứ văn chương miễn phí cho độc giả nữa. Tản
Đà với tuyên bố bán văn chương lừng lẫy cùng với sự nghiệp nhiều phen sống dựa
vào các Mạnh Thường Quân là một minh chứng điển hình. Thế nhưng trong suốt thế
kỷ XX, nhà văn đối với độc giả Việt Nam vẫn là một con người được phủ lên vầng
hào quang huyền thoại của chữ nghĩa bởi lẽ với những thông tin ít ỏi từ báo
chí, rồi do môi trường, hoàn cảnh sống, do điều kiện lịch sử xã hội… nên công
chúng rất ít có dịp tiếp cận nhà văn mà chỉ biết đến họ qua các tác phẩm. Một
cuộc nói chuyện của nhà văn với công chúng ở trường học, công ty, nhà máy… cũng
thành một sự kiện nổi bật và nhiều giai thoại văn học ra đời cũng từ đó. Sự bao
cấp trong một thời gian dài cũng đã khiến cho nhiều nhà văn và cả độc giả tự
cho rằng nghề văn là một nghề đặc biệt, một nghề nhận được sự đãi ngộ, biệt đãi
của nhà nước, của những người xung quanh.
Cũng chính vì thế, mới có những người bằng mọi giá phải
giành các giải thưởng, phải ngoi lên mặt báo, phải trở thành nhà văn, bởi vì họ
cần vầng hào quang ảo cho rằng văn chương là một nghề vẻ vang, danh giá, là người
của công chúng. Không, văn chương có thể là một nghề nghiệp, hay một sở thích,
chứ chưa bao giờ là một vầng hào quang để mang lại danh vọng đối với những người
viết văn chân chính.
Tháng 11 năm 1997 Internet chính thức vào Việt Nam,
sau đó là sự bùng nổ của các forum (diễn đàn), blog, và bây giờ là mạng xã hội.
Bên cạnh đó là sự bùng nổ của truyền thông, báo chí cùng với sự phát triển về mọi
mặt của xã hội Việt Nam. Đầu óc của chúng ta, thời gian của chúng ta cũng vẫn
như thế, nhưng lượng thông tin mà chúng ta phải đón nhận mỗi ngày thì tăng nhiều
so với trước ở một mức độ khủng khiếp. Từ đó phát sinh ra khái niệm “lật và lướt”
thông tin và những thông tin gì hot, có tính gây sốc thì mới khiến người ta dừng
lại đôi chút. Nhưng những vấn đề thuộc về truyền thông thì tôi sẽ quay lại bàn ở
một dịp khác. Ở đây tôi chỉ nói vào một điểm dễ nhận ra ngay là khi mạng xã hội
phổ biến ở Việt Nam, nhà văn tham gia trên đó có nghĩa là đã chấp nhận mình phải
hòa vào với văn hóa mạng và bỏ đi vầng hào quang mờ ảo có được từ sự “cách xa”
độc giả. Ngày trước nhà văn chỉ được độc giả biết đến qua tác phẩm, qua những
dòng tiểu sử chính thức, qua vài bài phỏng vấn, hay qua hồi ký… Còn ngày nay,
nhờ mạng xã hội, nhà văn đẹp trai hay xấu gái, đi chơi ở đâu, nhậu với ai ở
quán nào vào lúc nào, ăn tối với ai, yêu ai, ghét ai, mới mua cái gì, mới chửi
nhau với ai, phát ngôn câu gì, hôm nay buồn ra sao, quảng cáo cho thuốc gì,
trung tâm gia sư nào v.v… đều được công chúng biết rõ, thậm chí công chúng còn
tham gia hết sức tích cực vào quá trình “giải thiêng” chân dung nhà văn. Đương
nhiên nhà văn cũng biến trang mạng xã hội của mình thành một kênh để quảng bá
chính bản thân mình và tác phẩm của mình. Và dĩ nhiên sẽ có người quảng bá
khéo, có người vụng, có người chiêu trò, có người gây sốc v.v… Tất cả đều nhằm
đến mục đích vật chất (bán tác phẩm kiếm tiền) và tinh thần (mang lại danh tiếng).
Đây là điều tích cực mà mạng xã hội mang lại cho nhà văn. Nhưng điều gì cũng có
hai mặt như một câu ngạn ngữ phương Tây nói: “Tấm huân chương nào cũng có mặt
trái”, việc sử dụng mạng xã hội như một kênh quảng bá cho mình thì cũng phải chấp
nhận sự phán xét nhiều phía, nhiều chiều, từ nhiều tầm đón nhận của độc giả.
Nhà văn phải chấp nhận sự “giải thiêng” chính mình nếu chọn cách bộc lộ con người
mình trước đám đông.
Như vậy nhà văn cần phải đủ kiến văn, đủ khôn ngoan, đủ
tỉnh táo khi sử dụng mạng xã hội để tìm đến công chúng và cũng phải có một tâm
lý đủ vững vàng để đón nhận những cách nhìn khác nhau về chính nhà văn, về phát
ngôn, về tác phẩm của mình. Khi mà công chúng chỉ biết đến nhà văn qua tác phẩm,
họ chỉ có thể nhận xét tác phẩm của nhà văn. Nhưng khi nhà văn chọn mạng xã hội
và các phương tiện truyền thông để “phơi mình” qua các cuộc giao lưu, trò chuyện,
phỏng vấn, phát ngôn… thì công chúng lúc ấy lại có quyền đánh giá quan điểm của
nhà văn hay thậm chí cả tư cách của nhà văn. Đây là một thực tế của thời đại số
mà nhà văn phải chấp nhận! Một nhà văn dũng cảm sẽ không điện thoại cầu cứu
lung tung một số nhà văn khác, khi mà tôi lên bài “phím nghiệp” tác phẩm của họ.
Một nhà văn khi viết ra tác phẩm hay viết tác phẩm bằng những cách thức khác, thì
cũng cần chịu trách nhiệm về chính tác phẩm mang tên mình là tác giả.
Còn đương nhiên đánh giá tác phẩm như thế nào, khen
hay chê là cảm nhận của mỗi người và tác giả văn chương có quyền viết theo
phong cách mình muốn, sống theo cách mình thích và mong đợi, tùy vào khả năng
sáng tác của mình, cũng tương tự như Ban Giám khảo các cuộc thi văn chương có
quyền trao giải cho những tác phẩm mình đánh giá cao. Đời sống văn chương luôn
sôi động và chính sự đa dạng trong cách viết cũng như cách đánh giá, nhìn nhận
tác phẩm văn chương, nhà văn và những quan điểm của họ là điều tất yếu để tạo
nên sự sôi động đó.
LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT CÔNG CỤ ĐỂ ĐO
LƯỜNG THỊ HIẾU, THẨM MỸ CỦA CÔNG CHÚNG THÔNG QUA TRƯỜNG HỢP TRUYỆN NGẮN “TRĂM
NGÀN”
Nghiên cứu về sự phản hồi của người đọc, chúng ta
không chỉ nhận ra “tầm đón nhận” riêng của mỗi người đọc mà còn nhận ra những
“định kiến” văn chương “ám ảnh” độc giả qua nhiều giai đoạn lịch sử. Và chính
những “định kiến” này có phần do các nhà nghiên cứu, phê bình góp phần tạo dựng,
từ đó trở thành khuôn mẫu, thị hiếu của người đọc. Tác phẩm văn chương ra đời
gây tranh cãi là chuyện thường tình. Nhiều khi chính sự tranh cãi đó lại khiến
cho tác phẩm nổi tiếng hơn, tác giả được công chúng biết đến nhiều hơn. Đặc biệt
tôi cho rằng lý luận văn học Việt Nam trong một thời gian dài đã “cào bằng”
trình độ hay tầm đón nhận của người đọc, hướng văn học đến phục vụ số đông quần
chúng, trong khi thực tế chúng ta phải thừa nhận rằng có rất nhiều loại độc giả
khác nhau trong văn học với những trình độ khác nhau, điều mà chúng ta hay
tránh né.
Cách nhanh nhất và có vẻ dễ nhận thấy nhất khi thẩm định
một tác phẩm văn chương là: Xem ý kiến của số đông và xem ý kiến của những nhà
chuyên môn. Trong trường hợp ý kiến của số đông là chê, ý kiến của đa số nhà
chuyên môn vẫn là chê thì tác phẩm này quả là có vấn đề. Khi mà “tầm đón nhận”
và “phê bình phản hồi” của nhiều độc giả khác nhau, đến từ nhiều tầng lớp trong
xã hội, làm việc ở nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau… đều thống nhất chê tác
phẩm là dở, thì đây không chỉ là chuyện cảm nhận riêng của từng cá nhân độc giả,
mà đây là một hiện tượng xã hội học văn học, qua đó có thể thấy được nhiều điều.
Thế nên việc lắng nghe dư luận xã hội xung quanh một tác phẩm văn học nghệ thuật
là hết sức quan trọng và cần thiết.
Cuộc khảo sát mang tính xã hội học văn học xung quanh truyện ngắn “Trăm Ngàn” là câu trả lời rõ nét nhất. Một tác phẩm mà số người chê nhiều hơn hẳn số người khen, đó là một lời khẳng định! Trong lý thuyết tiếp nhận, điều tra xã hội học về tác phẩm và dư luận của công chúng là một khâu hết sức quan trọng.
Theo quan điểm của lý thuyết tiếp nhận, những người
làm lý luận phê bình chính là những công chúng tinh hoa. Do vậy nhiệm vụ của họ
vừa vẻ vang nhưng lại vừa nặng nề. Họ phải là những người cầm cân nảy mực để định
hướng cho đông đảo công chúng bằng quan điểm, lý lẽ của mình. Công chúng khi tiếp
nhận một tác phẩm, chỉ đơn thuần khen hay hoặc chê dở, nhưng nhiệm vụ của người
làm lý luận phê bình là phải chỉ ra được tác phẩm hay như thế nào, dở như thế
nào và tại sao tác phẩm lại hay hoặc dở.
Như trên đã nói theo lý thuyết tiếp nhận văn học thì
trong đời sống văn học nói chung, có hai kiểu người đọc: Thứ nhất là người đọc
bình thường, bao gồm tất cả công chúng thuộc mọi lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp,
trình độ văn hóa, thành phần và địa vị xã hội, thị hiếu thẩm mỹ, khuynh hướng
tư tưởng. Thứ hai, là người đọc đặc biệt, có sự tiếp nhận khác biệt người đọc
bình thường ở tính chất nghề nghiệp và trình độ chuyên sâu, họ bao gồm nhà văn
và nhà phê bình.
Nhà văn vừa là người sáng tạo, vừa là người đọc thực tế,
sự tiếp nhận của nhà văn thường gắn liền với nhu cầu tìm tòi những khía cạnh tư
duy nghệ thuật mới, sự phân tích có tính chất nghề nghiệp, kỹ thuật, ở cấp độ
cá nhân. Còn nhà phê bình đại diện cho các nhu cầu xã hội, thẩm mỹ của người đọc
để tiếp nhận tác phẩm; đó là ý thức về văn học trên cấp độ xã hội, xuất phát từ
những lập trường xã hội, thẩm mỹ nhất định, từ nhu cầu phát triển những trào
lưu văn học nhất định.
Tuy nhiên, sự khác biệt giữa tiếp nhận văn học của nhà
văn và nhà phê bình chỉ mang tính chất tương đối. Cái chính là hoạt động tiếp
nhận của nhà văn và nhà phê bình có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển năng
lực tiếp nhận của người đọc nói chung và cũng phô bày ra trình độ, tư duy, nhận
thức của họ. Thông qua những trao đổi về truyện ngắn “Trăm Ngàn”, chúng ta dễ
dàng nhận ra “tầm đón nhận” của mỗi người đọc.
Ở đây, tôi phải nói về lý thuyết tiếp nhận văn học, hay mỹ học tiếp nhận, để lý giải xung quanh kết quả này.
Lý thuyết phê bình phản hồi của người đọc đúng như tên gọi, “response” trong tiếng Anh là sự phản hồi, hưởng ứng, hồi đáp… “Reader response theory” là lý thuyết nghiên cứu về những sự phản hồi của người đọc khi đọc các tác phẩm văn chương. Từ trước đến giờ, các lý thuyết nghiên cứu văn học truyền thống chú trọng vào nghiên cứu tiểu sử nhà văn, hoàn cảnh lịch sử khiến tác phẩm ra đời, nghiên cứu nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn học, nghiên cứu các khuynh hướng, trường phái văn học… Nhưng từ thập niên 70 của thế kỷ XX, người đọc tác phẩm trở thành một yếu tố nghiên cứu quan trọng.
Cuộc khảo sát mang tính xã hội học văn học xung quanh truyện ngắn “Trăm Ngàn” là câu trả lời rõ nét nhất. Một tác phẩm mà số người chê nhiều hơn hẳn số người khen, đó là một lời khẳng định! Trong lý thuyết tiếp nhận, điều tra xã hội học về tác phẩm và dư luận của công chúng là một khâu hết sức quan trọng.
PS: Tôi phải lên nhận chứng chỉ khóa học rồi. Tạm dừng ở đây. Để viết tiếp sau.
1 nhận xét:
CÁM ƠN HÀ THANH VÂN! SAO KHÔNG THẤY ẢNH CHỤP KẾT QUẢ KHẢO SÁT?
Đăng nhận xét