BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 15 tháng 7, 2025

LÝ CHIÊU HOÀNG GÓC KHUẤT BI KỊCH CỦA MỘT NỮ HOÀNG ĐẾ - Dũng Phan

              (Viết cho những ai yêu quý và thương cảm cho bà)
 

Đại thi hào Nguyễn Du từng viết:

"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung."
 
Trước tới nay, thân phận người phụ nữ phong kiến với bao đắng cay và tủi nhục đều được miêu tả trong văn học, qua hình ảnh Thúy Kiều hoặc "Người con gái Nam Xương". Đó là chuyện về những nữ nhân tài danh nhưng sống dưới lễ giáo phong kiến khắt khe, cổ hủ, với quan niệm "Tam tòng, tứ đức" như sợi dây trói buộc cả cuộc đời, gây ra bất hạnh cho người phụ nữ. Nhưng hôm nay tôi sẽ kể cho bạn, bên cạnh những hình tượng văn học hư cấu, còn có một câu chuyện thật trong lịch sử Việt Nam về bi kịch nguời phụ nữ thời phong kiến. Và oái ăm thay, lại gán đúng vào một nữ hoàng đế đứng đầu cả thiên hạ. Người nữ hoàng đế này thay vì hô mưa gọi gió, lại sống đời tủi nhục như là đồ chơi của những tranh đoạt: Lý Chiêu Hoàng.
 
Trên vùng đất quan họ Bắc Ninh, có một di tích lịch sử tên gọi là Đền Đô, thờ 8 vị vua nhà Lý từ Lý Thái Tổ đến Lý Huệ Tông. Cách Đền Đồ không xa, có một đền khác nhỏ hơn, nằm biệt lập phơi sương cùng tuế nguyệt mà rất ít người biết. Ngôi đền ấy tên là Đền Rồng, thờ cúng vị vua cuối cùng của triều đại nhà Lý là Lý Chiêu Hoàng – nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
 
Trong khi cha và các bậc tổ tiên ở cạnh nhau, thì nữ hoàng phải đứng khép một bên và lặng lẽ gặm nhấm sự cô đơn, sự xa lánh của dòng tộc. Người đời xem bà là nhân vật đã để mất ngôi nhà Lý, nên bị coi là mang tội với dòng họ. Nền phong kiến Nho gia "trọng nam khinh nữ", ruồng rẫy bà sang một bên. Lịch sử dành cho bà những câu chữ đầy oan nghiệt. Chẳng hạn Việt Sử Tiêu Án viết:

“Hiện nay ở tỉnh Bắc Giang có đầm Minh Châu, giữa đầm có phiến đá to, người ta truyền lại rằng: Bà Chiêu Thánh cắp hòn đá nhảy xuống đầm mà chết, trên đầm có miếu Chiêu Hoàng, đó là thổ dân nơi đó bênh vực hồi mộ cho bà Chiêu Thánh mà đặt ra thuyết ấy. Bà Chiêu Hoàng nhất sinh là người dâm, cuồng, lấy chồng không vừa lứa đôi, đâu còn trinh tiết như lời người ta truyền lại.”
 
Trong cuốn "Lịch sử Việt Nam, tập 2" của Viện Sử học, chép về bà với những dòng biên niên như sau 

“Tháng 6 năm Ất Dậu 1225, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho Chiêu Thánh, lên làm Thái Thượng Hoàng, rồi xuất gia đi tu ở chùa Chân giáo”"ngày 11 tháng Chạp năm Ất Dậu (tức ngày 10 tháng 1 năm 1226, Chiêu Hoàng trút bỏ áo Ngự, khuyên mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế."
 
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì chép về câu chuyện phát tích mối quan hệ Lý Chiêu Hoàng - Trần Cảnh, rồi đăng chiếu nhường ngôi của bà cho chồng với những chữ "Tài đức không đủ", "Gắng gượng lên ngồi", "Nên nhường ngôi báu".
 
Lịch sử mang tính chất khô khan và tàn nhẫn. Lịch sử sẽ chỉ cần biết có vậy về một màn "thay triều đổi đại" giữa nhà Lý qua nhà Trần trong êm thấm, dưới bàn tay đạo diễn của thái sư Trần Thủ Độ. Nhưng Lý Chiêu Hoàng khi lên ngôi và nhường ngôi mới có 7 tuổi. Ở độ tuổi ấy, người lớn bảo gì làm nấy chứ nàng có biết gì đâu?

Cha nàng, Lý Huệ Tông trong giai đoạn suy vong của nhà Lý đã để mất hết quyền lực vào trong tay của anh em Trần Tự Khánh - Trần Thủ Độ. Rõ ràng nhận định quá dễ dàng: ngôi báu của nàng, vai trò của nàng chỉ là quân cờ trên bàn cờ chính trị của dòng tộc họ Trần.
 
Lịch sử là kẻ bàng quan và đầy khách quan đến lạnh lùng.
Sau màn đổi ngôi. Nữ hoàng đế Lý Chiêu Hoàng trở thành Lý hoàng hậu. Một năm sau, nàng chứng kiến cảnh cha mình và gia tộc nhà Lý bị nhà Trần diệt tộc, những người còn sống hoặc đổi họ (lý do bạn ít thấy người họ Lý tại Việt Nam), hoặc lên thuyền vượt biên (chẳng hạn như hoàng tử Lý Long Tường, tổ tiên của tổng thống Hàn Quốc Lý Thừa Vãn sau này). Còn nàng – Lý Thiên Hinh (tên huý Lý Chiêu Hoàng), phải sống chung với kẻ thù. Nhưng nàng không hiểu gì!
14 tuổi, Lý Chiêu Hoàng sinh con cho Trần Cảnh (lúc này đã là Trần Thái Tông).
7 tuổi làm hoàng hậu trẻ nhất, 14 tuổi sinh con, tức là nàng có chồng khi không hiểu gì, và có thai ngay khi vừa bước vào tuổi dậy thì.
 
***
 Bi kịch chưa buông tha người nữ hoàng đế này, khi đứa con ấy chết ngay trên bàn tay của mẹ sau khi ra đời. Lý Chiêu Hoàng vì đau khổ mà sinh bệnh lâu ngày, dẫn đến 10 năm vẫn không có thai với Trần Cảnh. Thái sư Trần Thủ Độ thực hiện việc tàn nhẫn tiếp theo. Để bảo vệ cho vương vị họ Trần, ông ép Trần Cảnh phải phế Lý Chiêu Hoàng để cưới chị dâu mình là Thuận Thiên Công Chúa đang có thai ba tháng.

Đây chính là vụ án mà chúng ta từng nghe nói, liên quan đến Hưng Đạo Đại Vương, vì Thuận Thiên Công Chúa chính là vợ Trần Liễu – cha của Hưng Đạo Đại Vương. Cuộc binh biến của Trần Liễu không thành. Còn Trần Cảnh vì đại cuộc, vì sức ép của Trần Thủ Độ mà phải chấp thuận.

Lịch sử chỉ dừng ở đó. Nhưng Còn Lý Chiêu Hoàng thì sao đây? Nàng bị phế xuống làm Chiêu Thánh công chúa, đẩy vào lãnh cung. Quá đáng thương.

Nam Phong tạp chí, số 24, 1919 vì thế có bài Vịnh Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh như sau:

“Tự ai gắp lửa bỏ bàn tay
Đã biết gì đâu lũ trẻ ngây
Mấy giọt chung tình muôi nước lã
Ba sinh oan nghiệt gói trầu cay
Vì cha ngơ ngẩn con nên dại
Có chú khôn ngoan cháu gặp may
Của gái hồi môn to lắm nhỉ
Cưới về sao nỡ bán đi ngay?”

20 năm sau, giặc Mông sang xâm lược nước ta lần thứ nhất. Vua thân hành đốc chiến ở Bành Lệ Nguyên, lâm vào thế bại, may được Lê Phụ Trần cứu giá. Cảm kích ân nghĩa của Lê Phụ Trần đã quên mình vì vua, sau khi đánh tan giặc. Trần Thái Tông định công phong tước, cho Lê Phụ Trần làm Ngự sử đại phu. Người vợ năm xưa của ông lại một lần nữa quay về bên bàn cờ chính trị. Khi ông đem vợ cũ của mình (giờ là công chúa Chiêu Thánh) gả cho Lê Phụ Trần. Năm đó bà 40 tuổi, vẫn tiếp tục bị giày vò. Bi kịch cỡ này, Thúy Kiều có là gì so với bà chứ?

Người Bắc Ninh vì thế mới có câu hát:

 "Trách người quân tử bạc tình
 Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao!"

Chính là để nói về chuyện trên.
 
Lý Chiêu Hoàng về ở với Lê Phụ Trần, sinh ra hai người con. Có thuyết nói rằng, một trong hai người con đó chính là Trần Bình Trọng, người bị giặc Nguyên Mông bắt và nói một câu nổi tiếng “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Đây là một chi tiết dã sử chưa được kiểm chứng. Tôi nêu lên để các bạn cùng nghe và bàn. Nhưng nếu là thật, thì số phận đã mỉm cười cho bà ở những năm cuối đời. Bởi gia sản lớn nhất của bậc cha mẹ, chính là con cái của mình.
Đến năm 61 tuổi, Lý Chiêu Hoàng mất. Tương truyền khi qua đời, tóc bà vẫn đen nhánh, môi vẫn đỏ như son, má vẫn tươi như hoa đào.

Cuộc đời của nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Việt Nam có thể tóm gọn như sau: 7 tuổi là quân cờ trong bàn cờ chính trị, 8 tuổi chứng kiến toàn gia bị diệt, 14 tuổi ôm con chết trên tay, 20 tuổi bị giam vào lãnh cung, 40 tuổi trở thành phần thưởng cho kẻ có công cứu giá nhà Trần, 61 tuổi chết cô đơn, trăm năm sau thờ trong ruồng rẫy.

Hồ Xuân Hương trong bài thơ “Bánh trôi nước”, từng viết 4 câu thơ sau:

“Thân em vừa trắng lại vừa ròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
 
Tôi tự hỏi rằng, có học sinh Việt Nam nào khi làm bài viết này, đã đưa cái tên Lý Chiêu Hoàng ra chưa? Hồ Xuân Hương viết bài “Bánh trôi nước” rõ ràng không hẳn trêu chọc vòng 1 của phụ nữ. Mà hệt như đang viết về Lý Chiêu Hoàng vậy. Đặc biệt câu thứ 2 và câu thứ 3. Gì mà “Nước non”, “7 nổi 3 chìm”, “mặc tay kẻ nặn”. Quả thực nỗi lòng của Lý Chiêu Hoàng cũng ở đó mà thôi.
Sử học hay Văn học vào một tay Lý Chiêu Hoàng mà ở cạnh nhau.
 
Lời kết:

Ta thường nghe, nữ hoàng đế là hô mưa gọi gió. Lịch sử từ Cleopatra đến Võ Tắc Thiên đều là vậy. Thế mà Lý Chiêu Hoàng thật là trầm luân, nàng mang đúng bi kịch thời đại của một nữ nhân thời phong kiến. Và càng nghiệt ngã hơn, bởi nàng là hoàng đế. Nữ hoàng đế của Việt Nam.
                                                                                    Dũng Phan
                                                                                 SG, 28/9/2017

Không có nhận xét nào: