BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 18 tháng 7, 2025

CHIỀU RƠI, THOI THÓP TRÊN VÀI LUỐNG KHOAI! – Phạm Hiền Mây



I. PHẠM DUY, PHẢI YÊU NƯỚC ĐẾN THẾ NÀO THÌ MỚI LÀM ĐƯỢC NHẠC NHƯ VẬY

Trong một chuyến đi chơi xa với nhà thơ Lê Đạt và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, bà Thụy Khuê, nhà lý luận phê bình văn học Việt Nam, định cư tại Pháp, kể lại: Trong xe, tôi để cassette nhạc kháng chiến của Phạm Duy, không nhớ rõ là khi nghe đến bài nào, Quê Nghèo, Bà Mẹ Gio Linh, hay Về Miền Trung, Lê Đạt buột miệng, phải yêu nước như “nó” mới làm được nhạc như thế. Còn Nguyễn Huy Thiệp thì bảo, nghe nổi cả da gà.
Câu chuyện chỉ có như thế thôi nhưng khi đọc, tôi rất thích. Thích, vì cái cách mà họ (Thụy Khuê, Lê Đạt, Nguyễn Huy Thiệp) nói, nó hạp bụng tôi, hạp với suy nghĩ của tôi.

Yêu nước đến thế nào mới làm ra nhạc được như vậy, thì từ từ, thủng thẳng, mình sẽ bàn tới, mình sẽ nói tới. Nhưng các bạn biết không, nhạc Phạm Duy, đúng là, ít nhiều, đã góp phần, khiến tôi cảm thấy thêm yêu cha mẹ, thêm yêu anh em, thêm yêu gia đình, thêm yêu căn nhà, yêu con mèo, yêu cây mận, yêu chòm mây, trước khi tôi được học về các khái niệm: yêu thương là gì, gắn bó là gì, tôn trọng là gì, gia đình là gì, quê hương là gì, Tổ Quốc là gì.

Nghĩa là, nhờ nghe nhạc Phạm Duy, nhờ nghe những giai điệu êm đềm, tha thiết, day dứt, nhớ nhung, đau thương, tưởng vọng ấy, mà đã khiến tôi, một cách rất tự nhiên, từ thuở còn ấu thơ, yêu tất cả những điều vừa nói ở trên, trước khi tôi đến trường, học những chữ cái đầu tiên của quốc ngữ, năm lên sáu tuổi.

Mỗi tối, chừng một, hai tiếng trước khi đi ngủ và trong những ngày nghỉ cuối tuần, nếu các anh tôi không phải học bài, ôn bài, là thể nào, ba tôi cũng mở nhạc Phạm Duy cho cả nhà nghe với các tiếng ca hàng đầu lúc bấy giờ mà ba tôi thích như Thái Thanh, Thanh Thúy, Lệ Thu, Giao Linh, Phương Dung.

II. CA KHÚC QUÊ NGHÈO

Tâm sự về bài Quê Nghèo, Phạm Duy nói: Huy chương nào chẳng có mặt trái? Có cái hùng của toàn quốc kháng chiến thì cũng có cái bi của người dân phải sống trong chiến tranh. Với những thanh niên ca, quân ca, dân ca kháng chiến, tôi đã nói đến vinh quang của chiến đấu. Bắt đầu từ chuyến đi Bình Trị Thiên vào năm 1948, tôi dùng dân ca để nói lên khổ đau của nhân dân.
Ông nói tiếp: Tôi nhìn rõ hơn bộ mặt thật của chiến tranh. Tôi thấm được cái gọi là grandeurs et servitudes (hay misères) của cuộc đời. Tôi soạn những bài hát rất bi như bài:

BAO GIỜ ANH LẤY ĐƯỢC ĐỒN TÂY

Chiều qua, tôi đi qua vùng chiếm đóng
Không bóng trâu cày bên đồng
Vắng tiếng heo gà trên sân
Chiều qua, gánh nước cho Vệ Quốc Quân
Nghe tiếng o nghèo kể rằng
Quân thù về đây đốt làng
Bao giờ anh lấy được đồn Tây, hỡi anh… 

Về sau, khi vào sinh sống ở Sài Gòn, vì muốn phổ biến nó, nên tôi phải đổi thành Quê Nghèo.

QUÊ NGHÈO

Làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói
Có những cánh đồng cát dài
Có lũy tre còm tả tơi
Ruộng khô, có những ông già rách vai
Cuốc đất bên đàn trẻ gầy
Có người bừa thay trâu cày
Bình minh khi sương rơi mờ trên rẫy
Thấp thoáng bóng người bên ngòi, tát nước với giọt mồ hôi
Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai
Hiu hắt tiếng bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm ngô đầy
Bao giờ cho lúa được mùa luôn, lúa ơi
Để cho cô con gái không buồn vì gió đông
Bao giờ cho lúa về đầy sân, lúa ơi
Để cho anh trai tráng được gần người gái quê
Làng tôi luôn luôn vươn vài đám khói
Những mái tranh buồn nhớ người
Xơ xác điêu tàn vì ai
Nửa đêm thanh vắng không một bóng trai
Có tiếng O nghèo thở dài
Vỗ về trẻ thơ bùi ngùi
Từ khi đau thương lan tràn sông núi
Quê cũ đã nghèo lắm rồi
Thêm đói thêm sầu mà thôi
Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi
Mơ thấy bên lề cuộc đời
Áo dài đùa trong tiếng cười
Bao giờ em trở lại vườn dâu, hỡi em.
Để cho anh bắc gỗ, xây nhịp cầu bước sang
Bao giờ cho nối lại tình thương, hỡi ai
Để em ra bến vắng, đón chàng người chiến binh.

II.1. LÀNG TÔI KHÔNG XA KINH KỲ SÁNG CHÓI

Làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói
Có những cánh đồng cát dài
Có lũy tre còm tả tơi
Ruộng khô có những ông già rách vai
Cuốc đất bên đàn trẻ gầy
Có người bừa thay trâu cày

Nếu như Phạm Duy không viết nhạc mà chuyển sang làm thơ, tôi tin ông cũng vẫn sẽ là một người thành công trong lãnh vực này.
Với lối kể chuyện nhỏ nhẹ, chậm rãi, từ tốn, bắt đầu với những hình ảnh mà ai trong đời cũng mong có, để được thương về, để được nhớ về, làng tôi, làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói.

Lâu lắm rồi tôi mới nghe lại hai chữ “kinh kỳ”. Kinh kỳ là vùng đất chung quanh kinh đô của một quốc gia. Xưa, Huế cũng từng là kinh đô của triều nhà Nguyễn trong suốt một trăm bốn mươi ba năm mà.
Rồi ông kể tiếp, làng tôi có những cánh đồng cát dài, có lũy tre còm tả tơi. Những cánh đồng cát dài? Có phải là Quảng Bình không? Và có cả những lũy tre còm, tả tơi vì gió.

Từ “còm”, cũng lại lâu lắm rồi tôi mới được nghe, tưởng chỉ dùng để tả người như Chương Còm của Duyên Anh, nào dè đâu, trong nhạc của Phạm Duy cũng xuất hiện: lũy tre còm, còm cõi, già cỗi, yếu ớt.
Tre là thứ dễ mọc, và um tùm. Thế mà, ở Quê Nghèo, thì thứ xanh mướt, cứng cáp, thẳng hàng của người ta, sang mình, bỗng thành thứ tả tơi, rách nát, hư hỏng, tan tác, gãy đổ và xiêu vẹo.

Không chỉ tre còm, mà đàn trẻ cũng gầy gò, yếu ớt. Không chỉ ruộng khô, mà những ông già cũng áo rách vai, đang lui cui cuốc đất.
Thay cho con trâu cày!

II.2. HIU HẮT TIẾNG BÀ MẸ CƯỜI

Bình minh khi sương rơi mờ trên rẫy
Thấp thoáng bóng người bên ngòi
Tát nước với giọt mồ hôi
Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai
Hiu hắt tiếng bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm ngô đầy

Từ bình minh chưa lên cho đến khi sụp tối, lúc nào cũng thấy thấp thoáng bóng nông phu, chân lấm tay bùn, siêng năng, cần mẫn, không quản ngại khó khăn, cực nhọc. Khi thì cày bừa, khi thì gieo hạt, khi thì tát nước, bón phân, không lúc nào ngơi nghỉ, chỉ mong kiếm đủ ăn cho đàn con thơ ở nhà.

Chiều xuống rồi. Một ngày làm việc đã hết. Trên những luống khoai, những luống khoai gầy gò, còm cõi như người, dường, có những thoi thóp, đậu lên.
Những giọt mồ hôi?
Những giọt sương chiều?
Không phải.
Là chiều rơi, Phạm Duy nhìn ra thế, là chiều rơi thoi thóp.
Tài tình. Và không còn từ để khen. Quả thực, tôi đã hết từ để khen ông Phạm Duy rồi.
Thoi thóp: rất nhẹ, rất yếu, sắp tàn lụi.
Như nông dân sau một ngày vắt trọn mồ hôi, sức lực lên đồng ruộng, buổi chiều, cùng với họ, lê gót chân về nhà.
Buổi chiều, theo gót nông phu, lê bước về nhà, mang theo biết bao là mỏi mệt. Mỏi mệt vì, đầu tắt mặt tối, mà bao năm, từ đời ông đến đời cha, từ đời cha đến đời con, vẫn cơm ăn không đủ no, vẫn áo mặc không đủ ấm.
Đi không nổi nữa, chiều đánh rơi mình, nằm thoi thóp, thở hắt ra, trên những luống khoai.
Nông phu còn cha mẹ, còn con cái, không dám đánh rơi mình, họ phải gắng trở về nhà. Hôm nào, nồi bắp, nồi khoai, đủ cho sắp nhỏ ăn, hôm ấy, bà mẹ mới khẽ nhẹ môi cười, rõ một nụ cười của hắt hiu, mong manh, tạm bợ!

II.3. ĐỂ CHO CÔ CON GÁI KHÔNG BUỒN VÌ GIÓ ĐÔNG

Bao giờ cho lúa được mùa luôn, lúa ơi
Để cho cô con gái không buồn vì gió đông
Bao giờ cho lúa về đầy sân, lúa ơi
Để cho anh trai tráng được gần người gái quê.
Khổ đã bao đời. Nghèo đã bao niên.

Những câu hỏi đã được gửi đi rất nhiều nơi, đến trời, đến đất rồi đến người, nhưng chưa một lần, nông phu được hồi đáp.
Nay thì Phạm Duy hỏi. Nghệ sĩ hỏi, nhạc sĩ hỏi, có khác. Ông không hỏi trời, hỏi đất, hỏi người, mà ông hỏi “lúa”. Muốn hỏi lúa, ông phải nhân cách hóa lúa. Ông cho lúa có nghĩ suy, có tâm tình như người. Và ông hỏi: Bao giờ lúa mới được mùa? Bao giờ lúa mới đầy sân
Người nông dân, họ thương lúa lắm, như người thành thị mình thương tiền vậy đó. Không có lúa, làm sao có cơm mà ăn. Không có lúa, làm sao mua được giống trồng cho mùa sau, lợp lại mái nhà, mua bầy gà, đàn heo về nuôi lớn, đặng bán làm lộ phí cho con đi học, đặng cho gái lớn lấy chồng, cho trai lớn lấy vợ.

Phạm Duy chắc phải hiểu rõ lòng nông phu lắm, nên ông mới gọi “lúa ơi” ra chiều tha thiết đến thế. Lúa quý với người, lúa cần cho người, lúa là thức ăn, lúa là hơi thở, lúa là bình yên, lúa là hạnh phúc, lúa là sự sống, lúa là tất cả.
Nghe đến cái câu, ông Phạm Duy nhỏ nhẹ, như năn nỉ: để cho cô con gái không buồn vì gió đông, thiệt là thương vậy đó.

Không phải giọng than thở, mà là tha thiết, pha chút van lơn, gắng nha, mùa gắng trúng nha, đừng thất bát, để cô gái trẻ còn kịp có đôi, trước khi gió đông lạnh lùng kéo về.
Không thì tội cho cô ấy lắm!

II.4. NHỮNG MÁI TRANH BUỒN NHỚ NGƯỜI

Làng tôi luôn luôn vươn vài đám khói
Những mái tranh buồn nhớ người
Xơ xác điêu tàn vì ai
Nửa đêm thanh vắng không một bóng trai
Có tiếng O nghèo thở dài
Vỗ về trẻ thơ bùi ngùi

Không chỉ là chuyện mùa màng, chuyện ngô khoai, ngày hai bữa đói no, chuyện dựng vợ gả chồng, chuyện ma chay, giỗ chạp, mà trong những năm tháng chiến tranh, người ta còn phải đối diện với sanh tử, sống chết, chia ly, kẻ ở người đi, cùng bao nỗi niềm cô đơn, ngóng trông, buồn bã.

“Làng tôi luôn luôn vươn vài đám khói”, luôn luôn, thường xuyên, lúc nào cũng thế, lúc nào cũng vài đám khói, vươn cao.
Khói gì ư? Khói bếp. Khói đốt đồng. Khói sương.
Khói gì cũng được.
Chỉ là, trong buổi chiều tà, bên những mái tranh xơ xác, điêu tàn, thì những đám khói xám, càng làm cho khung cảnh trở nên hắt hiu, tàn tạ, héo úa. Ngôi làng, dường chẳng còn chút sinh khí nào.
Gán cho sự vật có tính cách như người, Phạm Duy là trùm. Là tài lắm. Tài tình lắm.
Gán, không khó. Khó ở chỗ là gán phải cho hay, không chỉ hay mà còn phải lạ, không chỉ lạ mà còn phải độc, độc này không phải độc địa, độc này là độc đáo.

Mái tranh biết buồn, mái tranh biết nhớ người, tại sao không. Nhớ người vắt tranh, nhớ người lợp nó, nhớ người từng ra vào nhìn ngắm nó. Nhớ lâu ngày mà không gặp thì buồn chớ sao.
Giặc kéo qua làng, gây bao điêu tàn, xơ xác. Giặc kéo qua làng, đồng không nhà trống. Vắng vẻ vì đâu? Vì tất cả những người cha, vì tất cả những thanh niên đến tuổi, họ ra trận hết rồi còn đâu.

Ngay khúc này, Phạm Duy cho O xuất hiện. O là tiếng gọi của người miền Trung, dành để gọi chị hoặc em của mẹ, của cha, hoặc gọi phụ nữ, nói chung.
O không tròn, vì O cũng nhớ, vì O cũng buồn, nên O thở dài, O héo hắt, O lo âu.
Và, O ấy nghèo. O ấy nghèo như Quê Nghèo vậy đó.
Đã nghèo còn mắc cái eo. Eo đây là đám em nheo nhóc. Eo đây cũng có thể là đám con của anh trai, em trai, đang cầm súng ngoài biên cương. Vừa vỗ về trẻ thơ, O vừa bùi ngùi, mệt mỏi thở dài trong khói chiều bảng lảng, thương phận mình sao lại vất vả, long đong!

II.5. TỪ KHI ĐAU THƯƠNG LAN TRÀN SÔNG NÚI

Từ khi đau thương lan tràn sông núi
Quê cũ đã nghèo lắm rồi
Thêm đói thêm sầu mà thôi
Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi
Mơ thấy bên lề cuộc đời
Áo dài đùa trong tiếng cười

Kể từ khi đau thương lan tràn sông núi, nghĩa là, kể từ khi giặc thù càn qua thôn xóm, quê cũ vốn đã nghèo lắm rồi, nay, càng thêm đói, thêm sầu mà thôi.

Chỉ đọc lời ca, chỉ nghe bài nhạc, mà tôi còn buồn thúi ruột thúi gan, huống hồ chi là ông Phạm Duy, từng đi qua nơi này, từng đi qua chốn này, và tận tai nghe, tận mắt thấy.

Nên, Phạm Duy mơ.
Con người, luôn mơ. Con người, hoài mơ. Phạm Duy không ngoại lệ. Mơ này là mơ ước hay nằm ngủ mơ? Hiểu nghĩa nào cũng được. Hiểu nghĩa nào cũng không sai.
Nhưng, thông thường, người ta thường mơ ước cho mình, ngủ mơ về mình.
Phạm Duy thì khác, ông không mơ cho ông. Ông mơ cho bá tánh.
Ông mơ cho thiên hạ.
Ông mơ gì? Ông mơ thấy trăm họ tốt tươi.

Nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nói chung là nghệ sĩ, khi họ giả, giả dối, dễ biết lắm. Giả, chỉ nói được những lời khuôn sáo, chỉ nói được những lời bắt chước, chỉ nói được những lời rập khuôn. Vì không là thật của mình, thật từ lòng mình, thật từ nghĩ suy mình, nên viết ra của họ, nói ra của họ, sáng tác của họ, không gieo được xúc cảm, không làm lay động được, không làm tim chúng ta run rẩy được vì hạnh phúc, vì đớn đau, mà cũng không thể nào làm cho tình cảm chúng ta, hoặc thăng hoa tột đỉnh, hoặc trầm luân đáy vực.
Ông nằm ngủ mơ. Ông nằm ước mơ. Ông mơ thấy trăm họ tốt tươi. Và ông mơ, hai bên đường làng, hai bên lề thực của cuộc đời, phấp phới những tà áo dài bình dị mà tươi tắn của các O, của các cô gái trẻ, như đùa cùng tiếng cười trong veo, hồn nhiên, đang vô cùng hạnh phúc của họ!

II.6. BAO GIỜ CHO NỐI LẠI TÌNH THƯƠNG, HỠI AI

Bao giờ em trở lại vườn dâu, hỡi em
Để cho anh bắc gỗ, xây nhịp cầu bước sang
Bao giờ cho nối lại tình thương, hỡi ai
Để em ra bến vắng, đón chàng người chiến binh.

Trong Quê Nghèo, Phạm Duy có sử dụng bốn câu dùng để hỏi.
Hai câu đầu, ông hỏi “lúa”: Bao giờ cho lúa được mùa luôn, lúa ơi / Bao giờ cho lúa về đầy sân, lúa ơi.
Câu thứ ba, ông hỏi “em”: Bao giờ em trở lại vườn dâu, hỡi em.
Câu cuối cùng, ông hỏi “ai” - đại từ không xác định: Bao giờ cho nối lại tình thương, hỡi ai.
Và, chỉ cần câu hỏi “bao giờ cho nối lại tình thương, hỡi ai” được trả lời, thì theo tôi, ba câu còn lại, cùng lúc, sẽ được giải quyết, mà không cần tốn thêm bất kỳ thời gian chờ đợi nào, công sức nào, cũng như, mất mát nào.

Không cần cả việc, Phạm Duy phải nằm mơ.
Hạnh phúc sẽ ùa về, hiện diện, có mặt, khi nhịp cầu hai bờ vui được nối lại. Không còn chia tan, không còn ly biệt, không còn kẻ ở người đi. Em ra bến, đón anh - chiến binh thắng trận, trở về!

IV. CHIỀU RƠI, THOI THÓP TRÊN VÀI LUỐNG KHOAI

Trong bài viết Nhân Xem Trường Ca Con Đường Cái Quan Của Phạm Duy, nhà nghiên cứu văn hóa, âm nhạc cổ truyền Việt Nam, giáo sư, tiến sĩ Trần Văn Khê nhận định: Từ trước đến giờ, tôi chỉ thấy Mai Văn Bộ, Lê Thương và Phạm Duy là đặt lời đẹp nhất - từ năm 1950 đến giờ, tôi không theo sát phong trào nhạc mới, nên có thể có nhiều người khác đặt lời đẹp mà tôi chưa biết. Có điều, tôi chắc chắn là, trong hầu hết những bài hát của Phạm Duy, lời và nhạc chẳng những hay, mà lại có tánh cách giản dị, mộc mạc và nên thơ của những bài ca dao, những câu lục bát biến thể, hay những câu lục bát có thêm tiếng đệm, được phổ nhạc một cách tài tình.

Còn giáo sư Triết, đồng thời là nhà thơ Nguyên Sa, trong bài viết Phạm Duy, Đại Lực Sĩ, ông tấm tắc, ông xuýt xoa Phạm Duy không tiếc lời: Hôm nay, có những người thích Rong Ca, có những người mê Bầy Chim Bỏ Xứ, có những người ngất ngây với Hoàng Cầm Ca. Lại có những tín đồ của Thiền Ca, có những người yêu Phạm Duy của New Age, của nhạc giao hưởng, của mini opera và của Thánh Ca, hơn cả Phạm Duy của Tình Ca, Phạm Duy của Dân Ca, Phạm Duy của Kháng Chiến Ca, Phạm Duy của thơ phổ nhạc. Và ngược lại, có những người, với họ, chỉ có Phạm Duy của Tình Ca mới là Phạm Duy, chỉ có Phạm Duy Kháng Chiến Ca, chỉ có Phạm Duy thơ phổ nhạc, chỉ có Phạm Duy… , chỉ có Phạm Duy… . Nhưng đó, bạn thích Phạm Duy nào, tùy bạn. Cũng vậy thôi, viên kim cương có một ngàn mặt khác với tấm gương chỉ có một mặt. Cho nên phải chọn lựa, phải bàn cãi, phải bất đồng, phải suối ngàn đầu, sông trăm nhánh, chảy về vĩnh viễn một đại dương.

Cá nhân tôi, tôi không chỉ kính nể nhạc sĩ Phạm Duy về số lượng tác phẩm ông để lại cho đời, mà tôi còn bái phục ông về sức làm việc ròng rã hơn bảy mươi năm trời cho nền tân nhạc nước nhà, mở đầu bằng ca khúc Cô Hái Mơ, phổ thơ Nguyễn Bính vào năm 1942.
Không chỉ kính nể, không chỉ bái phục, tôi còn hết sức ngưỡng mộ ông về tài chữ. Ông dụng chữ cho các sáng tác của mình, một cách hết sức tài hoa. Lãng mạn, bay bướm có, mà khí phách oai hùng, lẫm lẫm liệt liệt, cũng có. Lịch lãm, sang trọng có, mà thấu hiểu nỗi khổ, thấu hiểu kiếp nghèo trong cuộc nhân sinh, cũng có. Rành rẽ tâm lý, không chỉ với lứa tuổi nhi đồng, thanh niên, mà còn nói thay lời cho cả tuổi bóng xế, “nắng chiều rực rỡ” nữa.

Giang hồ ư? Có Tục Ca, Vỉa Hè Ca. Tu thân ư? Có Thiền Ca, Đạo Ca, Tâm Ca. Yêu nước ư? Có Kháng Chiến Ca, Quê Hương Ca. Bóng dáng thời đại ư? Có Tình Ca, Rong Ca, Trường Ca.
Đủ hết. Không thiếu gì.
Nhạc của ông, phong phú, đa dạng. Nhạc của ông, làm cuốn hút, làm say mê cả trẻ lẫn già, thế hệ trước và thế hệ sau. Nhạc của ông, đưa người ta đi từ cung bậc của cảm xúc này qua cung bậc của cảm xúc khác, tự hào có, hạnh phúc có, yêu đương có, buồn bã có, sầu đau có, thương cảm có.
Và cả nỗi xót xa thân phận, phận người, phận nước, trong chiến tranh, như bóng xế tàn hơi, rơi lả tả, thoi thóp, thoi thóp, yếu dần rồi thở hắt ra trong buông xuống của hoàng hôn tím sẫm:
CHIỀU RƠI, THOI THÓP TRÊN VÀI LUỐNG KHOAI!

                                                                           Sài Gòn 15.07.2025
                                                                                Phạm Hiền Mây

Không có nhận xét nào: