BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 16 tháng 7, 2025

VÀI GIAI THOẠI VỀ NHÀ THƠ NGUYỄN BẮC SƠN - Nguyễn Như Mây



Đêm hôm qua, tôi bị đánh thức 2 lần lúc nửa đêm vì bài viết của mình trước đó về vài kỷ niệm với nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn. Đó là các anh Lâm Hùng và anh Trần Kế, bạn thân của nhà thơ, hiện đang dưỡng già ở Mỹ, cũng là những người từng yêu mến thơ anh khi còn ở chiến trường; thậm chí họ còn mang theo trong ba lô đi hành quân của mình tập thơ “Chiến tranh Việt Nam và tôi” của anh Nguyễn Bắc Sơn - tôi chưa hề gặp hay quen các anh ấy. Anh Hùng nói to trong điện thoại:
 
- Chú tính “ôm hết một mình chú chuyện Nguyễn Bắc Sơn” xuống dưới” sao ? Kể ra đi chớ !..
   
Thật ra, tôi sợ mang tiếng “bắt quàng làm họ” nên nay đã “cổ lai hy” rồi, kể lại câu được câu mất cho vui; với lại bây giờ thì tôi là “trâu già chẳng sợ dao phay” nữa ! Mong quí anh chị bỏ qua cho nếu tôi viết có thiếu sót hay bị sai sót.
  
Một hôm, có người bạn anh Nguyễn Bắc Sơn ghé nhà  “căn vặn” tôi có biết tại sao “Sơn trốn lính mấy năm rồi đột nhiên đi lính không ?” làm tôi như chợt nhớ ra - không biết có đúng chăng vì mình bây giờ già rồi, trí nhớ không thể chính xác:
   
Trong một đêm ca nhạc tổ chức hằng tuần ở Câu lạc bộ Phan Thiết (tôi còn nhớ lúc ấy anh Hiệp - con ông Lê Chánh Ngữ đánh trống; anh Phan Anh Dũng hát Number Nine...) - sau năm 1975 là Thư viện - ở đường Trưng Nhị - bờ sông K' Ty; ông Nguyễn Quốc Biền (là Thầy dạy Văn của tôi ) hình như lúc đó qua cuộc họp mặt đông đủ này đã xin lên "nói vài lời" để tự giới thiệu về mình để "kiếm phiếu" cho cuộc bầu cử Hạ nghị sĩ của Thầy sắp tới ở Sài Gòn. Chính anh Nguyễn Văn Hải (sau này anh đi lính mới lấy bút hiệu là Nguyễn Bắc Sơn ? - ngọn núi ở phía Bắc Bình Thuận - ?) đã lên giành lại micro trong tay thầy Biền và "không đồng ý" cho Thầy nói gì nữa. Nghe nói khoảng tuần lễ sau thì có người tới nhà (số 1, Chu Văn An) bắt anh Nguyễn Văn Hải bị đi lính (?); có ai đó nói do Thầy Biền ghét và tố cáo (?) - lúc đó tôi còn trẻ và ham mê văn nghệ quá; chỉ thấy và nghe nói vậy thôi. Nhưng việc anh trốn lính và học Anh văn trên lầu là thật vì có mấy lần tôi được anh gọi lên chơi. Tôi thấy quanh anh có rất nhiều sách tiếng Anh và tiếng Pháp (Pháp văn là sinh ngữ chính của anh). Tôi nhớ rõ rằng anh đã tặng tôi cuốn "Ainsi parlait Zarsthustra" của Nistzche. Tôi đã giữ nó tới năm 1975 thì...
   
Khi bị đưa ra quân trường ở Phú Yên (?) anh Hải của chúng ta được Thiếu uý Hồ Bang che chở (?)... Sau này, chính khi đi lính ("binh đơ") ở vùng Bắc Bình (Bình Thuận) anh mới lấy bút hiệu Nguyễn Bắc Sơn - theo lời các anh Huỳnh Hữu Võ  tức nhà thơ Thi Vũ Hà Như) và Tô Duy Thạch, Nguyễn Dương Quang - bạn của anh Nguyễn Bắc Sơn ở vùng ấy kể (?).
  
Tôi nhớ những ngày đầu xông xáo làm tờ tạp chí Quê Hương (một tờ báo văn nghệ đầu tiên của tỉnh Bình Thuận) gồm anh Nguyễn Bắc Sơn và các anh Sương Biên Thuỳ (Lê Văn Chính), Phạm Thuỵ Cầu, Trần Công Điệc (giáo viên Hội hoạ), Nguyễn Ngọc Hương, Vĩnh Giên (cả hai vị này đều là Thầy của tôi), nhạc sĩ Phan Anh Dũng... Hình như tạp chí ấy ra được 2 số rồi thôi (?). Rồi đến việc anh cùng quí vị ấy đi xin phép mở trường Nghĩa Thục (sau năm 1975 là Trường tại chức, toạ lạc trên đường Trần Hưng Đạo, gần tượng đài bây giờ)... Nay nghĩ lại thấy thương các anh và các Thầy đã có nhiều công sức lập ra cho được một ngôi trường Nghĩa Thục ấy dành cho con em các gia đình nghèo khó !
  
Hay chẳng ai tin chuyện sau năm 1975, hai "cụ" là nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn và hoạ sĩ Trần Công Điệc (tốt nghiệp khoá 2 trường Mỹ thuật Gia Định; giáo sư dạy hội hoạ ở trường Phan Bội Châu, Phan Thiết từ năm 1965 ) cùng nổi “hứng” rủ nhau thay phiên chở bằng xe đạp mini từ Phan Thiết vào tới trụ sở Hội văn nghệ Sài Gòn (81, Trần Quốc Thảo). Điều đáng kể là khi đi, cả hai “cụ” đều chỉ rủng rĩnh vài đồng bạc đủ ăn bánh mì không và uống... tí rượu mía dọc đường thôi. Ôi ! Phan Thiết đi Sài Gòn 200 km đường bộ thời bao cấp xa xôi và hoang vắng biết chừng nào; nhất là đoạn đi ngang qua Rừng Lá, nơi nổi tiếng mất an ninh thời chiến tranh!
    
Điều đáng kể trong các giai thoại văn nghệ là : trước nhà anh Nguyễn Bắc Sơn (đường Chu Văn An), nằm phía sau trường Nam tiểu học (trên đường Triệu Quang Phục, gần Chùa Bà) có một tiệm hớt tóc dã chiến do một ông chú che nắng bằng tấm nylon và vài cái ghế gỗ với một bàn cờ tướng cho khách chơi lúc ngồi chờ tới lượt mình hót tóc. Lúc ấy, anh Nguyễn Bắc Sơn và tôi đang ngồi uống cà phê trong nhà nhìn ra, bỗng anh lấy giấy viết một hơi xong bài thơ, nay tôi còn nhớ hai câu hay nhất (có in trong tập thơ "Chiến tranh Việt Nam và tôi") :
   
Hớt tóc, cạo râu là chuyện nhỏ   
Ba ngàn thế giới cũng chưa to !
   
Anh khéo “chống chế” khi có tí tiền còm vợ cho đi hớt tóc đã đem “nướng” hết vào bàn cờ tướng kia, rồi dám cả gan lấy cả “ba ngàn thế giới” của sách viết về Phật ra để nguỵ biện !
Nhưng, tình cảm của tôi dành cho anh càng thêm “đậm đà” một phần cũng từ những câu thơ bất chợt “bi hùng” ấy. Hồi đó, tôi còn non dạ và chỉ biết đi lang thang theo chơi với anh thôi. Trong khi nói chuyện, anh hay "chêm" tiếng Pháp (vì anh giỏi tiếng Pháp hơn tiếng Anh nhiều); may là tôi có biết tí chút nên anh thích lắm. Tới nay tôi vẫn còn nhớ mãi câu nói gần như để dạy tôi khi anh lập lại lời Picasso về hội hoạ những lúc thấy tôi cùng lúc thích làm thơ lại còn bắt đầu tập tành đụng đâu cũng hí hoáy vẽ vời như một đứa trẻ nít :
 The first half of life is learning to be an adult - the second half is learning to be a child.
     
Rồi, trong bài thơ chép tặng vợ chồng tôi sau một chầu rượu gạo ngâm chuối hột nướng (ở nhà anh Hồ Thái Thiết) có đoạn :
   
Anh là chuối   
Em là hột  
Em thích chuối   
Anh thích hột   
Đó là chuối hột !
 
(Vợ tôi bán rượu mía lậu và có ngâm thêm chuối nướng để bỏ mối; anh Nguyễn Bắc Sơn thường tới nhâm nhi miễn phí là vậy; miễn là anh đọc cho vài câu thơ tếu như bài "Chuối Hột" là được).
   
Nhưng nhiều lúc ở đâu đó vô tình “chạm” vào triết học Tây phương hay Đông phương, bạn bè được nghe anh “ thuyết” tới sáng nếu chịu ngồi nghe ! Giữa chuyện, anh “sổ” nhiều câu tiếng Đức của Heideger, hay Nietzsche nghe “ù” tai nhưng không ai chịu bỏ ra về dù đêm trên lầu nhà tôi đã khuya (nhưng chưa hết rượu !). Có hôm anh say quá, tôi cảm thấy anh là một vị “Bồ tát” đang ngồi Thiền với những câu thần chú bằng tiếng Phạn. Hoặc có lúc anh em ngồi im nghe anh kể lại thời đi hái cây thuốc nam ở tận vùng núi Tà Kú về để tập làm “lương y”, thật ra đó là những chuyến đi “giang hồ vặt” để vui chơi với rượu và với bạn bè tứ xứ, thậm chí anh còn “báo cô” bạn nghèo - người chịu “nuôi” anh trong đó có nhà nghệ sĩ rất mê ca hát và thuộc lòng hết tập thơ anh là Đỗ Hữu Thành ở Tân Thuận, gần chân núi Tà Cú cách Phan Thiết khoảng 30 km, trên đường quốc lộ 1). Một bài thơ Nguyễn Bắc Sơn viết tặng anh ấy nghe rất “sướng” :
     
Nằm ngữa cặc bên đời lận đận      
Ta và ngươi, hai gã cóc cần đời      
Đời mạt pháp, con người mạt vận     
Chỉ một tấm lòng, chỉ biết rong chơi !..
     
Ai ai cũng thích nghe anh “thuyết” về Đạo của Lão Tử; về con đường giải thoát chúng sinh của Đức Phật - để rồi ngay sau đó cười ngã nghiêng ngã ngữa vì những câu thơ rất “trần tục” của anh; ví dụ như :
     
Vì sao Đức Phật đi tu ?    
Vì Ngài rất sợ con cu nó hành !
    
Tất cả những bài thơ khôi hài kể trên chẳng qua chỉ là những nụ cười nhẹ nhàng của anh chứ tôi đã từng nghĩ anh là một con người sống biết chừng mực, đạo đức và đôi khi có “khuynh hướng” như một ẩn sĩ, một trí thức “sinh bất phùng thời” với bộ dạng một người đàn ông bình dân, giản dị nhất mặc dù anh có thể sống giàu có hơn nhiều người về vật chất. Ở đâu đó trong xa thẳm tâm hồn anh, một Nguyễn Bắc Sơn “triết gia” rất thật đang hoà nhập với bạn bè, với mọi người hơn là một thi sĩ phải mang súng ra ngoài chiến trường :
 Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ (thơ Vũ Hoàng Chương) là câu thơ anh hay "lẩm nhẫm" dọc đường lang thang.
   
Hoặc có nhiều lúc tôi ngồi im lặng ngay trước anh và “nhận định” về anh ở mặt “phi – lô” hơn để càng thấy quí mến và trân trọng với hồn thơ anh “ẩn giấu” trong một con người thỉnh thoảng trở nên ít nói ít cười một cách khó hiểu. Trong thâm tâm mình, tôi như "thấy" được giọng thơ đôi khi bi hài của anh hồi này đã khác xa một trời một vực với con người thật của anh là một hiền sĩ bị đời bắt phải dấn thân, nhập vào cuộc chiến trong vai một người lính ! Có thời anh Nguyễn Bắc Sơn rủ tôi ăn gạo lức muối mè theo bài số 7 của Osawa (Nhật Bản) tại nhà anh; nhưng chỉ được vài ngày thì tôi xin “bái” vì nhai cho gạo ra nước rồi mới nuốt thì còn đâu răng, còn đâu thời gian để làm thơ ! Thế là anh ôm hết hơn mười cuốn sách tiếng Anh, Pháp viết về “Phương pháp ăn gạo lức muối mè” và sách “Thiền” (Zen) của Suzuki (Nhật) ra chất đầy trên xe gắn máy của tôi; lúc về ngang qua chùa Tỉnh hội, tôi đem hết vào biếu thầy trụ trì ! Thầy nghe nói sách của Nguyễn Bắc Sơn là lắc đầu mà cười thôi. Vì anh Nguyễn Bắc Sơn đã từng có lần dám “giảng” về Đạo và đọc sang sảng thơ chữ Hán các đời vua nhà Lý, Lê, Trần viết về Phật giáo ngay tại chùa suốt cả buổi sáng !
    
Ngoài “tật” hay cho tiền bất cứ ai khó khăn hơn mình - dù đó có là tiền đô của Mỹ, anh còn có “tật” cố hữu là hay tặng sách quí, hiếm - có cuốn có cả chữ ký tặng của tác giả như tập thơ “Lá hoa cồn” của thi sĩ Bùi Giáng anh tặng tôi. Cuốn này do chính tác giả viết lời đề tặng hôm gặp anh ở Sài Gòn. Cuối cùng, tủ sách nhà anh vì vậy mà đành phải chịu cảnh sạch không vì chẳng còn một cuốn nào !
   
Có hôm, anh “tị nạn bà Hồng” (phu nhân của anh) trên lầu nhà tôi. Hai anh em say rượu mía tới độ không còn biết trời đất là gì. Sáng hôm sau vừa lúc chị Hồng tới nhà tôi tìm anh thì gặp chồng mình đang ngồi bỏ hết hai chân trên ghế ăn bánh tráng mắm ruốc với vợ chồng tôi nên chị yên tâm quay về. Trừ phu nhân nhà thơ Trần Tế Xương “quanh năm nua bán ở mom sông” để nuôi anh chồng “dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm” ở thời xa xưa, có thể nói phu nhân của anh Nguyễn Bắc Sơn là “number one” trong thiên hạ ! Gần như suốt trong mấy năm trời chị Hồng rất mệt mỏi vì cứ lo đi tìm chồng vì sợ anh say rượu mà té... chết! Vì anh đã từng 7 lần uống rượu xong là đi... tự tử ! Trong đó có việc anh nuốt lưỡi lam tự tử hay lần sau năm 1975 đã nhảy lầu trụ sở Hội văn nghệ tỉnh. Khi rớt từ balcon xuống, may là có cái dù che mát của người bán bánh bao ở dưới đất "che chở" cho nên anh chỉ bị thương nhẹ thôi ! Và, may hơn nữa rằng cụ thân sinh ra anh là một cán bộ cao cấp của Khu Sáu mới về nên anh chủ tịch Hội không bị "khó dễ" gì về trách nhiệm !.. Trước đó, chính quyền địa phương của anh Nguyễn Bắc Sơn hay "này nọ" về lý lịch của anh vì trước năm 1975, có thời gian anh làm việc cho người Mỹ - sau, họ biết lý lịch anh nên... thôi ! Họ đâu hề biết rằng trước năm 1975, tập thơ “Chiến tranh Việt Nam và tôi” của anh đã một thời làm xôn xao giới văn nghệ sĩ trí thức cả nước - kể cả ở miền Bắc nên mới có  cuộc gặp “lịch sử văn nghệ” giữa nhà thơ - lính Cộng hoà là anh - với nhà thơ - sĩ quan của tạp chí Văn nghệ Quân đội miền Bắc là nhà thơ Anh Ngọc - ngay tại nhà anh sau nhiều lần tới xin gặp anh... Hình như với anh việc gia đình cách mạng hay không chẳng là gì trong các sinh hoạt hàng ngày; vì chẳng có bao giờ ai nghe anh nói gì về chuyện đó đâu ! Người ta vẫn thấy anh đi lang thang chơi tự do như đã bao giờ khắp nơi không kể nắng hay mưa... Vậy thôi ! Và cuộc đời vẫn cứ trôi đi trôi đi !..
    
Lúc sinh thời, nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn của chúng ta là “một cây” đi bộ khắp Phan Thiết như một “hành giả” bụi đời Bodhisattva thầm lặng trong triết lý nhà Phật; và anh đã tới bất kể nơi nào có bạn bè vô tư để cùng vui chơi với rượu với thơ - nhưng tôi chưa từng thấy anh sa đà mà quên mất việc về với gia đình. Tôi thường chở anh đi ngao du ta - bà nên được chị Hồng tin tưởng vì biết tôi không uống rượu (khi tôi nhậu “quất cần câu” với chồng chị thì đâu có chị ở đó mà thấy !). Với anh, vì có quan niệm “l’habit ne pas fait le moine” (chiếc áo không làm nên thầy tu ) nên khi có cái áo mới nào đẹp của ai cho là anh lại tìm bạn nghèo để tặng cho được - thậm chí cả chiếc xe đạp Hữu nghị tôi vất vả xin mua bằng giấy giới thiệu cũng bị anh bán còn chưa tới nửa giá để giúp bạn đang nằm bệnh viện! Cuối cùng, nhà thơ vẫn là chàng Rimbaud đút tay vào hai cái túi không tiền đi rong khắp phố với tinh thần bài thơ Le bateau ivre (Con tàu say - của Rimbaud )... Và với anh, cuộc chiến tranh đang xảy ra trên đất nước mình chẳng qua chỉ là “ai nạn” của trời đất ! Và anh là một vị Bồ tát bị người ta giao cây súng cho mà cầm ! Thế nên, suốt trong tập thơ “Chiến tranh Việt Nam và tôi” của anh, ai cũng thấy anh trong việc cầm súng mang đạn (và bình ton chứa đầy rượu đế Nùng của xứ Sông Mao) lặn lội đi hành quân ở nơi dầu sôi lửa bỏng như Khu Lê vẫn “bị” anh coi như là một trò chơi của kiếp con người trong “cõi - người– ta” mênh mông chi địa ...
    
Mai ta đụng trận ta còn sống   
Về ghé Sông Mao phá phách chơi      
Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm  
Đốt tiền mua vội một ngày vui    
(trích nguyên văn trong “ Chiến tranh Việt Nam và tôi” của anh).
  
Có lần, báo Thanh Niên đăng thơ Nguyễn Bắc Sơn nhưng do sơ sót đã in kèm nhầm ảnh của nhạc sĩ Bắc Sơn - anh biết nhưng xua tay, coi như không hề biết tới ...
   
Sau này, trong đám tang của anh diễn ra đông đảo từ xưa tới nay chưa từng có - như một “đại hội văn nghệ” của bạn bè anh khắp cả nước và có rất nhiều anh chị em văn nghệ vô danh yêu thơ anh trước và sau năm 1975 ở cả hai miền Nam - Bắc đều rủ nhau cùng về thắp nhang tưởng nhớ anh. Tôi, một người bạn thơ, một đứa em của anh, lúc ấy đã lẩm nhẩm lại bài thơ mình viết tặng và đọc cho anh nghe ngày nào để thay cho một nén nhang thắp trước linh cửu anh :
    
Bạn ta, gã Nguyễn Bắc Sơn    
Ngày ngày vác Phật qua sông, rồi về !      
Phật làm cho gã từ bi    
Sông làm cho gã thèm đi bụi đời    
Còn ta, chỉ mỉm nụ cười      
Nhìn sông Mường Mán đầy - vơi mỗi ngày ...

                                                                            Nguyễn Như Mây

Không có nhận xét nào: