Ngày đó tôi còn đời lính độc thân, chưa có được diễm
phúc quen được người con gái Nha Trang, miền Thùy Dương Cát Trắng. Hàng liễu rũ trong quân trường Đống Đế, một màu xanh
thướt tha làm sao? Ôi! chẳng khác chi làn tóc mây mỹ nữ. Mình cứ tưởng tượng một
vóc dáng ẻo lả, rồi hình dung đó sẽ theo mình vào "mơ" sau một ngày
la -lết tập luyện, mệt nhoài.
Đời lính bộ binh nào dám mơ cao, đâu dám ngang hàng bao chàng trai hào hùng biển cả hay không quân "lướt gió tung mây" cao vút mấy tầng? Từ quân trường Đống Đế những ngày phép ngập ngừng chẳng dám về Nha Trang, một phố thị của miền Thùy Dương chỉ lang thang quanh Cầu Xóm Bóng.
Tác
giả Đinh Hoa Lư ngày ấy
MIỀN TRUNG HỎA TUYẾN ĐỊA ĐẦU Những người lính bộ binh giã từ quân trường. Đời lính
sẽ làm quen với bùn lầy nước đọng, những sườn núi gập ghềnh hay thác réo, vượn
hú chim kêu...
Chuyện bình thường của lính bộ binh là thế. Súng cầm
canh, người lính chiến thu mình đứng trong những chiều mưa biên giới hay bóng tối
của rừng khuya. Quê mẹ dưới kia, xa xa nay mờ nhạt mây sa. Đời lính nay làm bạn
với hoa rừng, bao cánh chim trời bay mãi phương nao?
BUỒN... Có những mảnh giấy vô tình mãi trắng, biết viết gì
đây? chẳng có lời nào. Những lúc này người lính chợt buồn khi chưa một "mảnh
tình vắt vai " cho bớt đơn côi mỗi khi chiều rừng tắt nắng. LẶNG NGẮM QUÊHƯƠNG Có một con sông nhỏ, một khám phá lý thú cho riêng tôi
khi dò trong bản đồ vùng tôi đóng quân. Nó mang tên là "SÔNG NHÙNG'. Ngày
xưa tôi quen gọi là "Nhồng'. Cầu Nhồng là cái tên tôi không bao giờ quên.
Ngày tôi còn nhỏ những năm lớp nhì- lớp nhất tôi hay vào Diên Sanh. Lúc này xe
hàng từ Quảng Trị vô phải qua Cầu Nhồng. Con đường Quốc Lộ 1 vào Diên Sanh phải
qua Hải Thượng tức là con đường cũ. Xe qua Cầu Nhồng rồi mới đến Cồn Dê trước
khi đến Diên Sanh tức là Xã Hải Thọ. Huyển thoại về Cầu Nhồng, thời nhỏ tôi chưa quên. Người
ta kể rằng: thời Pháp qua Cầu Nhồng hay có ma. Có khi ma nó xui cho tài xế thấy
cả "hai cầu Nhồng" trước mắt và lái tòm xuống sông? Đó là chuyện thời
xưa khi còn Pháp, tôi chưa ra đời. Rồi thập niên 1964-65 khi ba tôi làm tại Chi
CA Hải Lăng người hay lái xe vào Cầu Nhồng, đi bộ lên một đoạn ném lựu đạn bắt
cá. Có hôm bắt được con cá tràu khoanh lại to gần bằng cái bánh xe hơi? Hôm nay Cầu Nhồng chắc đã vào quên lãng khi Quốc Lộ 1
đổi hướng từ Ngã Ba Long Hưng qua Cầu Dài vào tuốt Mỹ Chánh. Khi viết những
dòng này, tôi không biết chiếc cầu đó còn không? Có điều tôi chắc chắn Diên
Sanh trở thành "Thị Trấn Đìu Hìu". do Quốc Lộ không còn đi qua nó nữa. Tôi thú vị với hai chữ Sông Nhùng để ngày ngày ngắm nó
uốn éo lượn lờ dưới chân núi. Tiếng là sông nhưng chỉ là con suối dài, nước chảy
còn mạnh qua nhiều nơi tung nước trắng xoá. Sông và thảm rừng dưới xa là cả một
bức tranh thuỷ mạc.
Đời lính và quê hương đôi lúc tình cảm phát sinh là những
lúc lặng ngắm non sông như thế. Trước khi đổi quân lên núi, tôi từng đóng quân
mạn biển. Khi tai nghe sóng trùng dương và mắt ngắm biển trời bao la bát ngát,
tôi mợt chợt nghiệm ra tình yêu nước dâng trào trong cơn gió lộng. Lên đây,
vùng cao: một lần nữa khi đứng trên đỉnh cao ngắm xuống một con sông đang lượn
lờ uốn khúc, tôi mới nhận ra quê hương sao đẹp quá! HỒN THIÊNG SÔNG NÚI ngàn đời
mãi xanh. So với tuyến Barbara vùng núi Mỹ Chánh và Phong Điền
ngó lên tuyến Động Ông Đô là tuyến núi ngoài cùng. Chốt trung đội 2 của tôi lại
là ngoài cùng của tiểu đoàn 105 do đó xem như tôi là 'đứa ngoài cùng biên giới'?
Cái mõm chốt của chúng tôi ngó lên Động Tiên cao chớm chở. Động Tiên thuộc về
"bên kia" nên rậm rạp hoàn toàn. Họ không bao giờ biết "đóng chốt"
là gì ngoài cái việc ẩn nấp và bụi rậm làm nhà hay khe suối, vực sâu làm đường
di chuyển... Từ chốt này tôi lại nhìn về được hướng Trấm có khúc
sông hình chữ U của dòng Thạch Hãn. Con sông uốn mình ở đây và đi tiếp về Cầu
Ga. Từ độ cao này nếu cố gắng, tôi còn nhìn thấy hình dáng cái cầu Ga đen sì gãy
đổ xuống sông từ năm 1972. Ở vị trí mới này tôi chẳng còn nhìn về được hướng Hải
Lăng nữa. Tôi chẳng còn nhìn xuống được khởi đầu của Sông Nhùng đang uốn lượn
dưới kia. Nơi chốt mới đối đầu với Động Tiên tôi chỉ thấy được mạn
An Đôn Tích Tường và cái cầu đen sì gãy đổ xuống dòng sông. Con sông mang tên
Thạch Hãn sẽ âm thầm chảy qua chiếc cầu gục ngã đó, rồi men theo những đống gạch
vụn cùng lau lách đìu hiu. Một thành phố mà hơn ba năm trước còn lao xao tiếng
guốc tới trường. Những toán học trò còn vô tư cắp vở đi học, trong đầu chỉ là
những hoài bão ước mơ ngây thơ trong trắng... Còn lắm điều tưởng nhớ về đống tro tàn của một thành
phố thân yêu mà ba năm trước nó còn nguyên vẹn. Rồi tất cả đều phải lìa xa? Còn
lại gì? họa chăng là tiếng gió hú đêm trường như thanh âm của những oan hồn kêu
khóc.Rồi từ một đỉnh cao quê hương ngày
tôi trở lại, hướng về đống gạch đá đổ nát đó, người lính càng nghĩ, càng ngắm,
rồi trầm ngâm ngổn ngang bao cảm xúc trong đầu? Tất cả chỉ là vị đắng, đến bởi
bao nỗi tiếc nuối, oán hận khôn nguôi và cũng là lạnh giá như nòng súng bên người.
Lính lại tưởng tượng có phép mầu hồi sinh nào đó, giá như không có một mùa hè
oan nghiệt 1972 thì thành phố thân yêu dưới kia vẫn còn vàngười lính trẻ sẽ được về thăm trong vài giờ
phép đơn vị. Tiếng giày botte de saut sẽ nện đều trên vài con phố thân yêu. Sẽ
cùng người em trong mộng bên ly cà phê nhỏ giọt dưới hàng hiên của quán cà phê
quen thuộc một đời học sinh... Nhưng ước muốn lạ lùng trên chỉ là ảo vọng hảo
huyền. Có thể lớp con cháu sau này sẽ bồi hồi khi người kể
chuyện nhắc lại chuyện chiếc cầu đã gãy cùng một thành phố xa xưa từng là một đống
hoang tàn từ độ 1972. Một ngày hè, có những người dân khốn khổ phải lìa xa quê
hương bản quán trong nước mắt bi thương, khổ hận khi phải trải qua một chặng đường
tràn đầy máu lệ. Nếu mai kia có ai thương về Quảng Trị, xin hãy cùng thắp lên một
nén hương lòng. Quảng Trị ơi!
tiền đồn ơi !ngày đó xa rồi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét