Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng
Thanh Châu, xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, là con thứ của ông
Bùi Thuyên và bà vợ thứ hai là bà Huỳnh Thị Kiền nên được gọi là Sáu Giáng.
Năm 1936, ông học trường tiều học Bảo An, rồi năm 1939
ông ra Huế học trường tư thục Thuận Hoá, có những người thầy nổi tiếng như Cao
Xuân Huy, Trần Đình Đàn, Hoài Thanh Nguyễn Đức Nguyên, Đào Duy Anh, Trần Huy Liệu.
Ông mê Truyện Kiều, mê thơ Huy Cận và đột nhiên bỏ học mà lý do theo ông là “bị
chấn động dị thường” do tập thơ “Lửa thiêng” của Huy Cận, trở về quê chăn dê và
đọc sách. Năm 1940, ông về Quảng Nam chăn dê. Từ năm 1941 tới năm 1945, ông trở
ra Huể vì “nhớ nhung gái Huế”. Năm 1945, khi Nhật đảo chánh, ông theo Đặng Tiến
ra Huế học ở trường Thuận Hoá, đậu bằng thành chung (diplôme). Ông về quê cưới
vợ, chuyển lên sống ở Trung Phước, một làng trung du hẻo lánh. Vợ ông tên Phạm
Thị Ninh, trạc tuổi ông, sinh trưởng trong một gia đình công chức khá giả gần
Chùa Cầu ở Hội An. Ông lấy bà Ninh mà không yêu: ông có cảm tình với cô em gái
của bà Ninh nhưng vì gia đình chuẩn bị gả cô em gái nên ông lấy cô chị là bà
Ninh.
Năm 1950, ông đậu tú tài toàn phần ban Văn chương và ra Liên khu IV để học đại học, nhưng khi nghe hiệu trưởng đọc diễn văn khai giảng, ông bỏ về quê, đọc sách, chăn dê. Từ năm 1950 tới năm 1952, ông chăn dê trên vùng rừng núi Trung Phước.
Năm 1952, ông nhập ngũ, tham gia công binh chỉ được 6 tháng ở Hiệp Đức, khi đang ở trên rừng, ông hay tin vợ ông bị bạo bệnh qua đời khi mới 26 tuổi.
Ông vào Saigon dạy Pháp văn và Việt văn tại các trường Tân Thanh, Tân Thịnh, Vương Gia Cần.
Từ năm 1957, ông viết sách giáo khoa luận đề do nhà xuất bản Tân Việt ấn hành: “Một vài nhận xét về Bà huyện Thanh Quan”, “Lục Vân Tiên”, “Chinh phụ ngâm”,...
Năm 1962, “Mưa nguồn”, tập thơ đầu tay, ra đời, trong đó có bài làm từ năm 1952, thời kỳ chăn dê. Ông bắt đầu nổi tiếng từ tập thơ thứ hai “Lá hoa cồn” ra mắt vào năm 1963.
Bùi Giáng thường tự nhận là “Trung niên thi sĩ” và có hàng loạt biệt danh trào lộng như: Thi sĩ đười ươi, Brigitte Giáng, Giáng Monroe, Bùi Bán Dùi, Bùi Bàn Dúi, Bùi Tồn Lưu, Bùi Tồn Lê, Bùi Văn Chiêu Lỳ...
Ông đã dịch nhiều
tác phẩm văn chương của Pháp, Anh và Trung Quốc như “Hamlet” của Shakespeare,
“Hoàng tử bé” của Saint- Exupéry, “Ngộ nhận” của Albert Camus, “Khung cửa hẹp”
và “Hòa âm điền dã” của André Gide, “Kim kiếm điêu linh” của Ngoạ Long Sinh...
Ông còn biên soạn các tiểu luận triết học và văn học như “Tư tưởng hiện đại”, “Thi ca tư tưởng”, “Lễ hội tháng ba”, “Con đường ngã ba”, “Đi vào cõi thơ”. Sau tập thơ đầu tay “Mưa nguồn” là những tập thơ: “Lá hoa cồn”, “Trăng châu thổ”, “Sương bình nguyên”, “Bài ca quần đảo”, “Rong rêu”...
Ông từ trần ngày 7 tháng 10 năm 1998 tại bệnh viện Chợ Rẫy, TP.HCM.
Ông còn biên soạn các tiểu luận triết học và văn học như “Tư tưởng hiện đại”, “Thi ca tư tưởng”, “Lễ hội tháng ba”, “Con đường ngã ba”, “Đi vào cõi thơ”. Sau tập thơ đầu tay “Mưa nguồn” là những tập thơ: “Lá hoa cồn”, “Trăng châu thổ”, “Sương bình nguyên”, “Bài ca quần đảo”, “Rong rêu”...
Ông từ trần ngày 7 tháng 10 năm 1998 tại bệnh viện Chợ Rẫy, TP.HCM.
Các tập thơ đã xuất bản:- Mưa nguồn (1962)- Lá hoa cồn (1963)- Màu hoa trên ngàn (1963)- Ngàn thu rớt hột (1963)- Bài ca quần đảo (1963)- Sa mạc trường ca (1963)- Sa mạc phát tiết (1969)- Mùi hương xuân sắc (1987)- Rong rêu (1995)- Đêm ngắm trăng (1997)- Thơ Bùi Giáng (Montréal, 1994)- Thơ Bùi Giáng (California, 1994)- Mười hai con mắt (2001)- Thơ vô tận vui (2005)- Mùa màng tháng tư (2007)
“Thuở đầu đời mới làm quen với nhạc Việt và khán thính giả Việt qua nhạc
ngoại quốc lời Việt của Phạm Duy, cô chỉ được biết đến qua cái tên rất ngắn gọn:
Julie...
Cô cũng không biết Bùi Giáng là ai, dù lúc đó ông ấy đã là một “thi sĩ
lẫy lừng tên tuổi, một thiên tài trong thi văn nước Việt”. Cô không thuộc thơ,
cho nên cũng chưa bao giờ nghe nói tới “ông thi sĩ ngoại quốc Guillaume
Apollinaire”.
Cho đến một hôm thi sĩ Bùi Giáng đến thăm nhạc sĩ Phạm Duy. Bố Phạm
Duy khoe với thi sĩ: “Để moi bảo bọn nhỏ đàn hát cho toi nghe! Julie, con hát
bài 'Vòng tay nữ sinh' và bài 'Hai khía cạnh cuộc đời' nhé!” (tức ca khúc "To Sir With Love" và "Both Sides Now").
Trong lúc Julie hát thì Bùi Giáng cầm cây bút chì hí hoáy vào một tờ giấy... Rồi
ông khen Julie hát hay và nói: “Ông và Bố sẽ có bài hát dính liền với tên
con!”.
Khi Julie đang hát thì ông dịch bài thơ của thiên tài Guillaume
Apollinaire ra tiếng Việt tại chỗ, và cũng trong ngày hôm ấy “Phù thủy” Phạm
Duy đã cho ra đời ca khúc “Mùa thu chết”. Dĩ nhiên, bài hát này ông dành cho giọng
ca của Julie. Ca khúc “Mùa thu chết” cũng là bài hát đầu tiên của Julie được
thu thanh vào đĩa nhựa…”
Bài thơ của Guillaume Apollinaire
L' ADIEUJ'ai cueilli ce brin de bruyèreL'automne est morte souviens-t-enNous ne nous verrons plus sur terreOdeur du temps, brin de bruyèreEt souviens-toi que je t'attends.
LỜI VĨNH BIỆTTa ngắt đi một cành hoa thạch thảoEm nhớ cho mùa thu đã chết rồiChúng ta sẽ chẳng tương phùng được nữaMộng trùng lai không có ở trên đờiHương thời gian, mùi thạch thảo bốc hơiVà nhớ nhé, ta vẫn chờ em đó…
Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảoEm nhớ cho: mùa thu đã chết rồi !Mùa thu đã chết, em nhớ choMùa thu đã chết, em nhớ choMùa thu đã chết, đã chết rồi. Em nhớ cho !Em nhớ cho,Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa!Trên cõi đời này, trên cõi đời nàyTừ nay mãi mãi không thấy nhauTừ nay mãi mãi không thấy nhau...Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảoEm nhớ cho: mùa thu đã chết rồi !Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảoEm nhớ cho rằng ta vẫn chờ em.Vẫn chờ em, vẫn chờ em”.Vẫn chờ...Vẫn chờ... đợi em!
https://youtu.be/iadWZHJwBCI
Ca khúc “Mùa thu chết” với giọng ca Duy Quang:
https://youtu.be/jMMEGFl9e6Y?si=-IcD5xrgzPwm18Rc
Tran Ho Dung
https://youtu.be/jMMEGFl9e6Y?si=-IcD5xrgzPwm18Rc


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét