Những năm trước 1968,
ngày Phật đản ở Huế là một quốc lễ. Chợ Đông Ba không bán thịt; bún bò gánh chỉ
nấu bún chay. Và đêm đến, trên sông Hương người Huế làm lễ Phóng đăng. Nhánh
sông nhỏ dưới khu Gia Hội bồng bềnh giải ánh sáng lấp lánh trên nước như cảnh
thần tiên. Mọi người nói giọng thấp xuống, nhỏ lại, chen tiếng niệm Phật A di
đà Phật… Nam mô bổn sư… Những người hung tợn nhất xóm hóa ra hiền từ, nhân ái.
Chỉ một đoạn đường mấy trăm thước của đường Trung Bộ (nơi tôi ra đời, sau 1954
đổi thành Tô Hiến Thành) có đến bốn chùa, và nhiều am, miếu. Chùa lớn, Diệu Đế;
am Mã Ông Trạng.
Sáng 30 tháng 5, 1988 qua ga Huế (nơi lần cuối đưa mẹ đi
Sàigòn 1960, em Bé ghìm tiếng khóc, thân người gầy gò rung bần bật vì phải xa mẹ),
loáng thoáng những người buôn đồ cũ chạy thất thanh giữa tiếng nạt nộ, xua đuổi
của công an… En ơi… mấy en ơi… Có mền tù khôn… (không hiểu tại sao họ biết
chúng tôi là đoàn tù cuối cùng trở về Nam).
Một thoáng ngắn, tôi nhìn ra cửa sổ
toa tàu, hướng núi Ngự Bình, nơi có phần mộ mẹ tôi và những người trong gia tộc.
Lòng trống rốc. Mắt ráo hoảnh. Lúc tàu rời ga Nam Định tối hôm trước, tôi muốn
được bật nên tiếng khóc nhưng khóc không nổi. Qua đèo Hải Vân, trong đầu loáng
thoáng những câu thơ “Tôi về Hải Vân thân áo tù. Mười mấy năm dài nhục thấm dư.
Nghe lạ đất trời lạnh vụng biển. Quê nhà còn không cơn mộng du…” Hiện thực rất
chính xác, “tiên tri” của Mai Phương (Đỗ Ngọc Yến) viết trên báo Đại Dân Tộc,
Sàigòn: “Người Nam Hà đầu tiên đến Miền Bắc, 4 tháng 3, 1973…”. Nay tôi là “một
trong nhóm người Nam Hà cuối cùng rời miền Bắc từ trại Nam Hà”. Ngày 25 tháng
3, 1975 tôi đứng trên đèo nầy với trung tá Đỉnh chụp hình người mẹ quê chạy từ
Quảng Trị vào Đà Nẵng với xác con nhỏ ủ dưới vạt áo dài (tấm hình về sau đăng
báo Độc Lập).
Đến Đà Nẵng vào buổi trưa, tàu đổi toán phục vụ (toán
người Nam)… Cán bộ áp tải tù ra lệnh đóng cửa sổ toa tầu vì “sợ dân phẫn nộ ném
đá”… Tầu ngừng khá lâu để xoay đầu máy ra hướng Huế (tôi quen sinh hoạt nầy từ
đầu năm 50, nhà các bạn thân chung trường, chung lớp đều quanh khu nhà ga nầy).
Dưới sân ga có những tiếng hoan hô… “Hoan hô tướng Lê Minh Đảo… Hoan hô lính Việt
Nam Cộng Hòa… Hoan hô… hoan hô…”
Một người trong toán phục vụ có lẽ do thấy tôi
tương đối trẻ so với những người trong đám tù, thấp giọng thân mật: “Chú cấp bậc
gì mà giờ nầy mới về? Đại úy! Trời đất, đại úy người ta về từ mười năm trước.
Mà đại úy đơn vị chi… Đại úy nhẩy dù… Vậy chú là nhà văn phan… Chú muốn ăn, uống
chi… Con đem tới…”
Tôi uống hết một két mười hai chai bia cho đến chiều tàu tới
ga Hàm Tân. Được tháo cùm tay, bước xuống xiêu ngã trên sân ga, nhìn chung
quanh chập chờn… Cây cao su của tiểu đoàn 7 Dù, lối lên Hố Nai, ngã ba Tân Hiệp,
Biên Hòa… Rừng cao su đặc thù của miền Nam mà tôi ngắm nhìn mê mải ngây ngất từ
toa xe lửa buổi đầu đời vào Sàigòn, 1957. Có người đi tới… Ở đây chúng tôi biết
cậu về… Cậu nhớ tôi không… Tôi lắc đầu, phần vì hơi bia, phần mệt mỏi đường đi…
Thật sự không còn sức. Tôi Đông đây… phan lạc giang đông. Tôi nhìn người bạn
không cảm giác.
Hàng xóm không biết tôi
là ai, do có những chiếc lu đựng nước mưa trước hiên nhà, họ đặt nên tên “Ông
Út” hay “Út Lu”. Bạn bè không mấy ai, vì hầu hết đã ra đi, thỉnh thoảng hai người
bạn niên trưởng, Như Phong và Doãn Quốc Sỹ (bên kia sông Sàigòn, vùng Thạnh Lộc,
Nhị Bình, nơi chiến trường lớn của năm 1968) đi mobilette qua chơi.
Tôi thường
đi quanh quẩn trong vườn măng cho dù nửa đêm về sáng, nằm võng ngủ trước hiên
nhà, chơi với các con trẻ nhà quê, dạy chúng học, đốt lửa trại, nấu chè đêm
trung thu. Nếu phải về Sàigòn thì cũng lựa lúc ban chiều, trở lại Lái Thiêu vào
buổi tối, qua cầu Ông Đụng, cầu Ba Thôn từ ngả xóm Mới đi lên (không đi ngả quốc
lộ 1 qua Thanh Đa, Bình Triệu)… Sự lựa chọn nầy có chủ đích: Nơi nầy, tiểu đoàn
2 bị đụng trận. Nguyễn Ngọc Khiêm oằn người chết trên cáng cứu thương do tôi
kéo đi một đầu. Lái Thiêu lại là những ngày bình yên, dễ chịu nhất, mọi việc cần
ở Sàigòn tôi nhờ gia đình thứ hai, Đằng Giao – Chu Vị Thủy giải quyết hộ… Cũng
chỉ thấy vui đôi chút khi ngồi trên gác của căn nhà 104 Công Lý (tên cũ – không
thể nào đọc nên tên mới “Nam Kỳ Khởi Nghĩa” mà không khỏi chạnh lòng) trước
thương xá Crystal Palace, chung quanh những tranh sơn mài của Đằng Giao. Từ nhà
104 ra Lê Lợi không đầy 100 thước nhưng rất nhiều lần tôi không muốn bước ra chốn
kia.
Có những thú vui, thói quen sinh hoạt của trước 1975 hoàn toàn bị mất hẳn.
Từ những năm 50, tôi đã là khán giả của rạp chớp bóng Morin (Huế và Đà Nẵng);
sau nầy, Mini Rex là nơi nghỉ ngơi thú vị mỗi buổi trưa khi ở Sàigòn. Sau 30
tháng 4, thói quen, thú vui nầy mất hẳn. Nay 15 năm ở Mỹ cũng không thể phục hoạt.
Cứ nhớ thanh âm rền rĩ bài nhạc đệm… Giải phóng miền Nam… từ những phim ảnh của
xưởng phim giải phóng người cứ nổi gai như sắp bị hành hình.
Cứ thế, tôi sống từng
ngày qua đi không mấy khó khăn so với hơn 8 năm trong bóng tối hầm giam chờ đem
đi bắn. Thật ra cán bộ cộng sản chỉ cốt ý dọa, vì bắn cũng vô ích, mà không có
cớ gì để bắn! Cho dù kết án tử hình một người tù cũng chẳng gì khó khăn. Lê Đức
Thịnh, chung T4, trại Long Giao (1975-1976), chỉ trong một thư gởi lén cho vợ,
viết lời khẳng khái “Anh không chịu bó tay” mà phải ra pháp trường do hai ông
chấp pháp tên Giáp, tên Dần nào đó ngồi xử trong vòng 10 phút. Vụ xử bắn cốt ý
hù dọa… Phải, chỉ để dọa đám tù đã chịu bó tay quy hàng, không hơn, không kém.
Còn khi (đã) muốn bắn thì đem bắn ngay xong vất hàng rào bảo rằng trốn trại như
lần giết những sĩ quan an ninh quân đội trước khi số tù còn lại của trại Long
Giao chuyển ra Bắc (19/6/1976). Hoá ra câu nói sáng 30/4 khi ném giấy tờ tùy
thân, thẻ sĩ quan, thẻ lĩnh lương xuống chiếc cống trước nhà sách Khai Trí “Coi
như mình đã chết!” là lời xác định đầy đủ, chung kết.
Với tâm trạng nầy tôi đi
Mỹ… Tôi đi Mỹ cứ như hắt cặn nước. Tôi đi Mỹ nhẹ tênh vất điếu thuốc. Quê hương
gầm gừ khinh miệt. Đất xa trọn chốn lưu đầy… Trần Mạnh Hảo khi tiễn ra phi trường
(5/11/1993) có lời cảm khích: Thế nào ông cũng khóc khi ra khỏi nước! Thế nhưng
tôi đã không biết phi cơ cất cánh lúc nào, ngủ ngay khi vừa ngồi xuống ghế trên
máy bay. Nhìn đâu ra Sàigòn của Miền Nam khi toàn phi hành đoàn phát âm giọng Bắc
vùng Thanh, Nghệ… Nghe ngang ngang, cứng cứng; thái độ khinh khỉnh, xấc xược
(do biết chuyến bay thuần là người tỵ nạn đi diện H.O).
Những năm đầu tiên ở Mỹ
(1994-1996) tôi luôn ở trên đường xa như nhân vật trong phim Forrest Gump… Cứ
nhắm đằng trước mà chạy. Chạy mãi cuối cùng anh ta đứng lại, quay về nhà đã bỏ
đi từ khi người vợ lâm tử. Tôi chẳng chạy trốn điều gì, nhưng cũng có lúc tự hỏi:
Anh lái được bao lâu? Anh lái đi đến đâu? Cuối cùng dòng hiu quạnh. Exit ra ngả
sầu… Khi một mình ngồi nơi một Rest area nào đó trên đường 10 vạn dặm xuyên nước
Mỹ, chiều mưa lớn ở Lousiana. Tôi làm thơ như cách người ta tập thể dục, tập
khí công mỗi ngày. Làm Thơ bất cứ nơi đâu… Tôi đọc thơ ông… Tự thân trống vơ trống
vốc… Nơi phi trường York, vừa rời Houston… Phi trường… Xuống. Không một ai. Chỉ
tập thơ ấm trong lồng ngực…
Tôi đọc Thơ Tuyển của Tô Thùy Yên trong tình cảnh
như thế. Từ đó hiểu ra Bùi Giáng phải điên, Tam Ích phải tự tử (1972). Cũng hiểu
ra tại sao Nguyễn Chí Thiện không thể làm thơ được nữa. Trước khi chết, bất cứ
ai cũng gặp phải tình trạng “flash back” – nhưng nếu không chết được thì người
ta sẽ sống thản nhiên với tất cả mọi hoàn cảnh. Sự Thật lớn nhất là Cái Chết.
Không phải triết học như lời của Albert Camus đâu mà đấy là Lý (giản dị) của
Nghĩa Sống/Chết, không cần phải lên đến Hy Mã Lạp Sơn tu cách các Đạt Ma mới hiểu
ra.
Người Việt ai cũng cảm nhận được một lần nhưng không viết và nói ra như bạn
với tôi đang vấn đáp với nhau. Cứ như thế tôi ở Mỹ đến năm thứ mười-lăm, đi gần
hết các tiểu bang, đất đai trên thế giới… Lên thấu Alaska, xuống tới Nam bán cầu…
Phan Nhật Nam
Phan Nhật Nam

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét