BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2020

HÃY KHÓC LÊN ĐI PHƯỢNG - Thơ Nguyên Lạc




HÃY KHÓC LÊN ĐI PHƯỢNG

(Cảm tác khi được tin những cây phượng bị đốn hạ hàng loạt trong các ngôi trường ở Việt Nam) [*]

1.
Màu huyết phượng. màu máu tim tôi đó
Màu yêu thương tuổi thơ dại học đường
Ôi! màu hoa phượng đỏ ... rơi tóc em thương
Màu mực tím. màu giấy hồng. ngại ngùng thư ngỏ

Màu huyết phượng của một thời son trẻ
Đã theo tôi suốt cả kiếp đời
Đường đón đưa cánh phượng rơi rơi
Màu tim đỏ thắm tình tôi một thuở

Màu mực tím. màu hoa phượng đỏ
Tàn lá xanh che mát sân trường
Che mát ngại ngần thơ dại tay run
Trao lưu bút ép cánh hoa. kèm thư. hè nhung nhớ

Mãi trong tôi vẫn màu hoa đó
Vẫn phượng thẫm màu máu đỏ tim tôi
Vẫn tiếng ve reo. cánh phượng rơi nhung tóc mây người
Dù rất biết phôi pha tháng năm. tuyết sương màu điểm

2.
Sẽ còn không đỏ màu phượng vỹ
Sẽ còn không mượt mà hoa rơi tóc ai nhung
Vì mất lương tri nhỏ nhen ích kỷ
Vì những mưu toan tư dục. đoạn đành đốn gốc yêu thương

Thôi chắc sẽ rồi mù dấu thiên đường
Thiên đường tuổi thơ thư hồng mực tím
Khóc lên đi ngôi trường. phượng sẽ rồi mất biến
Bởi ai đó vô tâm muốn xóa bỏ tình người

3.
Rồi sẽ tìm đâu phượng đỏ ngôi trường?
Rồi sẽ tìm đâu điêp khúc ve thương?
Tàn lá xanh che những chờ đợi ngại ngần
Mực tím. thư hồng. tương tư tình ngỏ

Hãy khóc lên đi những người tuổi trẻ
Hãy khóc lên đi bụi phấn bạc đầu
Đường về tuổi thơ sẽ rồi cấm cửa
Phượng thắm sân trường ... cổ tích đời sau!
.
Không phượng. ngôi trường còn có gì đâu?
Mực tím. thư hồng. lưu bút? Tim đau!

                                                 Nguyên Lạc

………

[*] Mời đọc những đoạn văn này:
1. Người ta chặt Phượng không thương tiếc, biến nó thành phong trào. Coi việc chặt Phượng như là phong trào ba không đã từng rầm rộ diễn ra cách đây chưa lâu.
Thưa ông bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ, đồng kính thưa chính phủ cao quý. Nếu không ra tay ngăn chặn “phong trào” chặt Phượng, nếu vẫn hăng máu “đào tận gốc, đốc tận rễ” với Phượng, thì dòng tộc Phương chúng tôi sẽ bị tuyệt chủng. Dòng tộc Phượng chúng tôi, có đời sống như mọi loài vật, ngoài ra còn có tâm tính, có linh hồn của nó. Nếu nhẫn tâm hủy diệt dòng tộc Phượng, các ngươi phải trả giá, con cháu các ngươi cũng bị vạ lây. Trời không tránh được luật nhân – quả, chứ đừng nói kẻ phàm tục như các ngươi.
(Nguồn: Bá Tân - Báo Tiếng Dân)
2. Với việc các trường VN chặt cây phượng vỹ, xã hội hiện nay nói chung và nền tảng giáo dục nói riêng, cái tính vô trách nhiệm nó quá lớn, nó làm mất lương tri của những người đang đứng trên bục giảng và kể cả các cán bộ quản lý trong Bộ GD&ĐT.
Cây phượng nó là thơ, là nhạc, là tâm hồn học trò bao nhiêu thế hệ VN.
Tại nhiều trường học, cây phượng đang bị ‘thảm sát’ oan uổng vì bị coi là mối đe dọa đối với tính mạng học trò, chẳng lẽ một cây gãy đổ thì cả giống loài bị kết tội?
Tuy nhiên thay vì cắt tỉa, tìm phương pháp ngăn chận những cây nguy hiểm, nhiều trường học lại đốn hạ toàn bộ những cây phượng đang có. Nếu trường nào cũng áp dụng cách này, loài cây được mệnh danh là hoa học trò sẽ hoàn toàn bị trục xuất khỏi môi trường của học trò. Và khái niệm sân trường sẽ không còn gợi nhắc đến một nơi rợp bóng mát của cây xanh mà trở thành khoảng không gian trụi lủi chỉ có sàn bê tông và nắng gắt. (Chặt nhầm còn hơn bỏ sót - Báo Mới)

NGƯỜI MIÊU: LỊCH SỬ CỦA MỘT DÂN TỘC LƯU VONG - Trần Trúc Lâm

Nguồn:
https://nghiencuulichsu.com/2014/07/31/nguoi-mieu-lich-su-cua-mot-dan-toc-luu-vong/

Sắc tộc Hmong, mà ta hay gọi là Miêu tộc hay người Mèo, ước tính hiện có khoảng hơn 6 triệu dân trên thế giới, mà đại đa số lại sống ở Trung quốc. Số còn lại sống rải rác ở miền bắc các nước Việt, Lào, Thái và Miến điện. Có khoảng 80 ngàn người đã được định cư tại Hoa Kỳ.

                                 Phân bố nhóm ngôn ngữ Miêu-Hmong- Ảnh


NGƯỜI MIÊU: LỊCH SỬ CỦA MỘT DÂN TỘC LƯU VONG
                                                                                  Trần Trúc Lâm

Sắc tộc Hmong, mà ta hay gọi là Miêu tộc hay người Mèo, ước tính hiện có khoảng hơn 6 triệu dân trên thế giới, mà đại đa số lại sống ở Trung quốc. Số còn lại sống rãi rác ở miền bắc các nước Việt, Lào, Thái và Miến điện. Có khoảng 80 ngàn người đã được định cư tại Hoa Kỳ. Đã có khá nhiều sách báo Tây phương, nhất là Mỹ nghiên cứu về sắc dân này. Càng tìm hiểu thì chúng ta sẽ càng ngạc nhiên về lịch sử hùng tráng và lâu đời của một dân tộc kém may mắn, đã bị suy vong mai một mà trở thành một sắc tộc miền núi. Ôi thật là tang thương ngẫu lục với trò dâu biển ngậm ngùi.

RỪNG CÂY GỖ GIÁ TỴ (CÂY GỖ TẾCH) TRẦN LỆ XUÂN Ở ĐỊNH QUÁN, ĐỒNG NAI

Với diện tích gần 150ha trải dài trên địa bàn 2 huyện Tân Phú và Định Quán, rừng cây giá tỵ (cây gỗ tếch) trên đất Đồng Nai được trồng từ thập niên 1950s. Đây là rừng cây gỗ tếch cổ thụ (rừng cây giá tỵ) trồng lâu năm và lớn nhất cả nước hiện nay.

                                  Rừng cây giá tỵ mùa thay lá. Ảnh: Ban Mai


RỪNG CÂY GỖ GIÁ TỴ (CÂY GỖ TẾCH) TRẦN LỆ XUÂN Ở ĐỊNH QUÁN, ĐỒNG NAI

Cây giá tỵ có tên khoa học là Teektonafrandick, thường được gọi là gỗ tếch. Cây có nguồn gốc từ Thái Lan, Myanmar, Ấn Độ, sau đó phát triển ra nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tại Đồng Nai, cây giá tỵ được trồng lần đầu là những năm 50 của thế kỷ trước trên vùng đất Tân Phú, Định Quán. Hiện tại, ngoài các lâm trường, Khu Bảo tồn thiên nhiên - văn hóa Đồng Nai, nhiều hộ dân cũng trồng cây giá tỵ nhằm mục đích lấy gỗ bán. Ngoài giá trị về mặt kinh tế, việc phát triển loại cây này còn có ý nghĩa lớn đối với bảo vệ môi trường, bảo vệ đa dạng hệ sinh thái rừng tự nhiên.

NẮNG… - Thơ Phan Quỳ


   


NẮNG…

Nắng như thắp lửa
Cháy cả khung trời
Nắng đầy trên cao
Nắng tràn xuống thấp
Nắng nhoà trong mắt
Nắng rát đôi tay
Người qua phố nhỏ
Hối hả cuối ngày

Nắng như cơn say
Qua chiều ngày hạ
Thiêu đốt lòng nầy
Thảng thốt trời mây.
Người qua phố nhỏ
Nghe lòng nhớ thương
Mưa xuân mùa cũ
Ướt mềm tóc sương.

Nắng ơi đừng nữa
Thắp lửa cả trời
Bỏng rát lòng tôi.


                   Phan Quỳ

Thứ Tư, 10 tháng 6, 2020

HOÀNG LY - CÂY BÚT VÕ HIỆP ĐƯỜNG RỪNG KINH DỊ, ĐỘC ĐÁO CỦA VIỆT NAM


                    

Về truyện võ hiệp Việt Nam, các tác giả của loại văn học này chỉ đếm trên đầu ngón tay, và nhà văn Hoàng Ly đã nổi bật hơn tất cả với tiểu thuyết võ hiệp dã sử Một Thời Ngang Dọc (Thập Vạn Đại Sơn Vương), một thời nổi tiếng là truyện võ hiệp hay nhất của nước ta. Ông viết rất khỏe, liên tục cho ra đời hàng loạt feuilleton (truyện đăng nhiều kỳ trên báo) với các truyện Kỳ Nữ Sông Kỳ Cùng, Người Điên Áo Thụng, Hận Loa Thành, Tráng Sĩ Không Tên… Nhà văn Hoàng Ly đã được người ta đặt tên tuổi cho là Vua Feuilleton.

Nhà văn Vũ Bằng trong trong tác phẩm “Những cây cười tiền chiến” đã viết về nhà văn Hoàng Ly: “… tiêu biểu cho những nhà văn thơ trào phúng trong thời kỳ này là Trương Linh Tử, tên thật là Đỗ Hồng Nghi... Còn tên nữa là Thánh Sống, Hoàng Ly, tác giả nhiều tiểu thuyết mạo hiểm, ái tình, phiêu lưu, anh là người đầu tiên đã mở một mục trào phúng mới trên báo Liên Hiệp, mục Vấn Kế…”



HOÀNG LY, CÂY BÚT VÕ HIỆP ĐƯỜNG RỪNG KINH DỊ, ĐỘC ĐÁO CỦA VIỆT NAM

Nhà văn Hoàng Ly, tên thật Đỗ Hồng Nghi (1915- 1981), sinh tại Quần Anh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Ông là con cụ Đỗ Văn Phấn (thường gọi cụ Cả Phấn) và cụ bà Đỗ Thị Ngọc. Gia đình dòng dõi cụ Nghè Quần Anh – tức tiến sĩ Đỗ Tông Phát, người đã có công mở mang vùng duyên hải tỉnh Nam định vào Thế kỷ XIX, khi giữ chức Dinh Điền Chánh sứ dưới triều nhà Nguyễn.

Ngay từ niên thiếu nhà văn Hoàng Ly đã sớm bộc lộ thiên hướng về văn thơ, kịch nghệ và bắt đầu sang tác rất sớm. Song phải đến đầu thập niên 40 của thế kỷ trước, ông mới chính thức xuất hiện trên văn đàn miền Bắc dưới các bút danh HOÀNG LY, TRƯƠNG LINH TỬ, nhanh chóng tạo được sự chú ý.

TRĂNG QUÊ - Thơ Lê Kim Thượng


   


TRĂNG QUÊ

Chiều nay gió núi trăng ghềnh
Một mình một bóng, ngồi bên rượu bầu
Về đâu… nào biết về đâu
Sông dài sóng vỗ bờ lau lặng buồn
Giọt sương rơi nhẹ vào hồn
Chợt nghe tím bóng hoàng hôn vô thường…                                      
Quê nhà... xa thẳm khói sương
Nhớ quê tình mãi vấn vương trong lòng
Còn chăng hương lúa trên đồng
Thơm phù sa một dòng sông hiền hòa
Ngồi buồn ngắm ánh sao sa
Giữa hoang liêu biết quê nhà phương nao…                                         
Nửa khuya sóng vỗ thao thao
Lắng nghe có tiếng ngàn sao thở dài...
Sông buồn bến vắng đợi ai
Luyến lưu đồng vọng, u hoài tiếc thương
Thuyền trôi nhè nhẹ trong sương
Mờ mờ nhân ảnh… đêm trường thở than…                                 

Hoang vu ánh nguyệt non ngàn
Phất phơ lối cỏ, khói làn chơi vơi
Trăng tà xế bóng bên đời
Rượu không đủ ấm cho người lãng du
Ngàn năm... còn núi Vọng Phu
Sông dài soi bóng Thiên Thu một mình…
“Đa tình thì vướng nợ tình
Trách người là vậy… trách mình sao đây…”
                   
                       Nha Trang, tháng 6. 2020
                            LÊ KIM THƯỢNG

“...” Ca dao

Thứ Hai, 8 tháng 6, 2020

KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN - Thơ Trần Mai Ngân


   


KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN

Không gian vùi vào mưa
Trắng một màu trinh bạch
Thời gian giấu ban trưa
Khi vùi vào ngực ấm...

Trái tim khe khẽ đập
Thầm thì lời yêu em
Đặt tay lên thử xem
Nhịp thật thà từng nhịp...

Nhưng, làm sao đuổi kịp
Thời gian đi qua mau
Không gian đắm một màu
Tím xa xôi dịu vợi

Làm sao làm sao đợi
Một cánh chim nghìn trùng
Đã bay sang nơi ấy
Hủy bỏ lời thuỷ chung!

Bây giờ thì đã hiểu
Không gian và thời gian
Vốn sắc không, không màu
Duy còn trái tim đau!

                   Trần Mai Ngân

CỬA SỔ ĐÊM KHUYA – Đức Hạnh và Thi Hữu


    


CỬA SỔ ĐÊM KHUYA
[Thuận nghịch đọc]

Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương
Lạ cảnh buồn thêm nỗi vấn vương
Tha thướt liễu in hồ gợn sóng
Hững hờ mai thoảng gió đưa hương
Xa người nhớ cảnh tình lai láng
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yến ngàn dâu ủ lá
Hoà đàn sẵn có dế bên tường.

Tường bên dế có sẵn đàn hòa
Ủ lá dâu ngàn yến lại qua
Bàng bẽ rượu thơ ngâm bạn vắng
Láng lai tình cảnh nhớ người xa
Hương đưa gió thoảng mai hờ hững
Sóng gợn hồ in liễu thướt tha
Vương vấn nỗi thêm buồn cảnh lạ
Gương lồng cửa rọi nguyệt cười hoa.

HÀN MẶC TỬ


KÍNH HỌA "CỬA SỔ ĐÊM KHUYA


HOA MỘNG
[Thuận nghịch đọc]

Hoa hồng lộng nguyệt bóng ngời gương
Ấp ủ duyên nàng nghĩa vấn vương
Tha thiết biển tình khai suối nhạc
Ngạt ngào trăng nước vọng quê hương
Xa vời cảnh vật trôi ngày tháng
Lạnh ngắt dòng sông rụng lá bàng
Qua bến nhớ thuyền yêu sóng biển
Hòa thơ mộng nở thắm bông tường

Tường bông thắm nở mộng thơ hòa
Biển sóng yêu thuyền nhớ bến qua
Bàng lá rụng sông dòng ngắt lạnh
Tháng ngày trôi, vật cảnh vời xa
Hương quê vọng nước trăng ngào ngạt
Nhạc suối khai tình biển thiết tha
Vương vấn nghĩa nàng duyên ủ ấp
Gương ngời bóng nguyệt lộng hồng hoa

Đức Hạnh 

Chủ Nhật, 7 tháng 6, 2020

SỬ NÔ - Thơ Chu Vương Miện


       


SỬ NÔ

Sử là sự tích
Nô là nô đùa “cười cợt không nghiêm túc”
Thời xửa xưa quan ngự sử và các quan
Luân phiên đàn hạch nhà vua
“vì phạm lỗi, phạm tội, hôn quân”
Thì nhà vua chỉ cười ruồi và cho bọn hề
“phường chèo” ra nhại lại tiếng nói của các quan
Cùng riễu cợt nhằm vô hiệu hoá
Những lời khiển trách
Kế là “Thanh Sử” trước Công Nguyên
Ba Tàu còn “đậu phụng” hậu
Chưa có ngành in
Phải dùng tre trúc bỏ phần ruột
Chỉ dùng cật cạo sạch
Lấy dây chỉ lụa buộc liền nhau
Rồi viết chữ lên đó
Nếu về sử thì gọi là Thanh Sử
Hoặc giấy nợ giấy văn tự văn khế
Đều xài chung được cả
Còn “Xử Xanh” thì ý nghĩa có phần hơi khác
Xử là xử lý, xử thuyết, xử án
Còn Xanh là cái lớn hơn cái chảo
Nhỏ hơn cái vạc dầu
Người được cho vào cái Xanh để soạn thảo
sử đầu tiên
Là quan địa phu Lịch Sinh Lịch Tự Cơ
Được đại tướng Hàn Tín cho vào đó
Đổ dầu đốt lửa để có không khí
Soạn pho sử nhà “Tây Háng”
Sau đó 200 năm thì “sử da” Tư Mã Thiên
Viết lách sử xiếc làm sao
Mà vua Hán chịu quá
Bèn mang cung hình “tức là thiến ku thiến dái”
Để người có tật có tài
Để không còn bận tâm về các ghệ
Để thành sử gia lớn nhất thiên hạ Ba Tàu
Còn sử sách là “người đẻ ra sử và và sau đó
viết thành sách”
Đại để nhân vật “thái sư Trần Thủ Độ”
Từ trên trời rơi xuống lai lịch mơ hồ ảo
Đành phải làm khai sinh cho Trần Thủ Độ
Thân phụ là Trần Thủ Huy
Mẹ là công chúa em vua Lý AnhTôn
Được đề cử đi sứ nước Đại Liêu
và hạ sanh ra một ấu nhi ngay tại bến đò
nên đặt tên là Độ, “độ là bến đò”
còn “Sử Da” là người chỉ chuyên chép lại
những pho sử cũ rích
từ đời nảo đời nào rồi ghi tên mình vào
là tác giả
dù sao chép nguyên văn không thiếu một chữ
tuy nhiên bên dưới trang sách cũng cố
ghi vài hàng nhận xét
để người đọc biết rằng kẻ viết
“là một kẻ đần độn ngu dốt”

                                           Chu Vương Miện

NỬA VẦNG TRĂNG LẠNH, HUYẾT PHƯỢNG - Thơ Nguyên Lạc


   
     

NỬA VẦNG TRĂNG LẠNH

1.
Em 13 tuổi ngây thơ
Tôi 15 tuổi ngu ngơ ghép vần
Em 16 tuổi trăng rằm
Tôi 18 tuổi bâng khuâng góc trường

Chiều tan huyết phượng con đường
Tóc nhung áo trắng bóp tan tim người
Trời ơi mắt trúc liếc tôi!
Điếng hồn tôi lắm triền môi ai hồng

2.
Cuộc đời đâu phải ước mong
Em theo phù phiếm để lòng tôi đau
Dĩ nhiên từ đó tôi sầu
Dĩ nhiên từ đó những câu thơ buồn

Vần thơ đầy nỗi nhớ thương
Bài thơ đoài đoạn. khùng khùng điên điên
Em đi bỏ lại tôi riêng
Nửa vầng trăng lạnh một hồn tan hoang

3.
Từ em bỏ lại ngôi trường
Bỏ ngây thơ. bỏ con đường đón đưa
Bỏ hàng phượng đứng chơ vơ
Bỏ tôi điên dại huyễn mơ hạ hồng

Em giờ còn nhớ tôi không?
Lắng đêm điệp khúc vọng âm muôn trùng
Góc đêm sương lệ lạnh tuôn
Xanh màu trăng khuyết nghiêng buông ngang đầu

Soi tôi buốt nỗi tình sầu
Mối tình ngây dại ...
và câu đoạn trường!

HƯƠNG VỊ QUÊ NHÀ, TÌM LẠI TUỔI THƠ MÌNH - Thơ Văn Thiên Tùng


       
                    Nhà thơ Văn Thiên Tùng


HƯƠNG VỊ QUÊ NHÀ

Lại háo hức như bao lần về trước
Đồng ới nhau... về thăm lại chốn xưa
Nơi quê nhà tiếng thừa nắng - dư mưa
Mà bao thuở tổ tiên mình nếm đỗi

Vốn tha phương đau đáu về chốn cội
Tuổi thơ đồng trang lứa lại chung trường
Bao mùa hè giăng mắc lắm tơ vương
Ươm tuổi mộng theo từng mùa phượng điểm...

Hình ảnh quê trĩu tấc lòng lần kiếm
Con hẽm vào, góc phố với tên đường
Những khúc sông biền bãi bốn mùa thương
Bao kỷ niệm hằn in trong tiềm thức

Tiếng gà gióng điểm canh tàn thúc giục
Nhịp mõ Chùa tỉnh hội khẽ khàng khua
Chuông La Vang thánh thót nhịp nhàng đưa
Lay tỉnh lỵ bừng giấc chào ngày mới…

Mọi công việc tất bật cho ngày tới
Sau bấy canh tĩnh lặng với đêm dài
Lại một ngày rộn rã tự sớm mai
Bao ngõ phố nối nẻo làng đây đó!

Đâu Bến Hộ - cầu Ga Tây - Bắc Ngõ
Hay Cầu Lòn - Hải Trí đến La Vang
Nào chợ xưa - trường sở lắm khu phường
Nằm gọn lỏn bên bờ sông Thạch Hãn

cửa tỉnh lỵ hướng nam với Ba-ri-e chắn
vùng ngoại ô Đại Nại với Long Hưng
Quèng Tri Bưu - Góc bầu tới Cổ Thành
Điểm tọa lạc uy nghi là Chùa Tỉnh…

Bọc loanh quanh bao nhánh sông Vĩnh Định
Từ cựu Dinh đến thành lũy sau nầy
Tứ cổng Thành tiếp nối lắm đổi thay
Dáng đất mẹ tâm điểm đầy uy lực…

Lũy tre làng một phần hằn tâm thức
Tỏa bóng râm che mát lối đi về
Những chiều hè nồm ngát lộng triền đê
Bao tiếng trẻ reo đùa chơi thỏa thích

Nhan Biều ơi! Phù sa bồi trầm tích
Mỗi mùa về dưa - bắp - đậu đầy vơi
Mỗi xuân về hoa cải thắm vàng lơi
Hòa sóng biếc thắm nghĩa tình Mai-Hãn

Sử tích quê đọc hoài nào chẳng ngán
Thoáng dư âm xao xuyến nhéo tim mình
Đâu bóng hình ấy… ấy đẹp thắm xinh
Mà thoáng chốc lay hồn ta xao động.

Lại trở về lục dư hương cuộc sống
Thế hệ chúng mình từ đấy lớn khôn
Hình ảnh quê cha trĩu nặng tâm hồn
Và đất mẹ lưu dấu tình trĩu nặng…

Hương vị quê... đâu chỉ của riêng ai !...

                      Quảng Trị, 21/6/2019
                           Văn Thiên Tùng

Thứ Bảy, 6 tháng 6, 2020

HÔN NHÂN VÀ TIỀN BẠC - Vũ Thị Hương Mai




Có người đã nói rằng "Ngày nay người ta không lấy nhau vì tiền; nhưng vì tiền mà người ta chia tay nhau" hay "hôn nhân do tính toán cũng cổ hủ như việc chàng trai trả chô bố vợ tương lai mười con ngựa để được quyền con gái ông ta là vợ mình". Dù các mối quan hệ tương lai giữa vợ chồng có như thế nào, dù về sau họ có cố chứng minh đến thế nào cho bản thân và cho gia đình hoặc bất cứ người nào khác rằng chưa bao giờ họ yêu người bạn đời của mình thì sự thật vẫn cứ tồn tại.

NHỮNG BIÊN KHẢO MỚI VỀ VUA QUANG TRUNG - Trần Đức Anh Sơn

Từ năm 2015 trở lại đây, nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Chính (học giả người Việt ở Mỹ) trở nên nổi tiếng ở trong nước, với những biên khảo mới xuất bản về lịch sử Việt Nam và nhà Tây Sơn.

Học giả Nguyễn Duy Chính đi tìm bức chân dung của vua Quang Trung trong Thư viện Getty ở California, Hoa Kỳ. Ảnh: T. H.BÍCH


NHỮNG BIÊN KHẢO MỚI VỀ VUA QUANG TRUNG
                                                                 Trần Đức Anh Sơn

BỘ BIÊN KHẢO ĐỒ SỘ

Từ tháng 9.2015 đến nay, Nguyễn Duy Chính đã gửi 16 đầu sách viết về lịch sử và văn hóa Việt Nam và Trung Hoa mà ông là soạn giả để xuất bản ở Việt Nam. Trong đó, có bộ “tổng tập” về cuộc chiến chống lại quân xâm lược Mãn Thanh do Quang Trung Nguyễn Huệ lãnh đạo và lịch sử Việt Nam từ thời Lê mạt đến đầu thời Nguyễn.

Thứ Sáu, 5 tháng 6, 2020

BÁC SĨ ĐỖ HỒNG NGỌC, NHƯ TÔI BIẾT - Nguyễn Hiệp


             

Chi hội Văn học nghệ thuật La Gi vừa ra mắt giai phẩm HOA BIỂN chào mừng thị xã La Gi tròn 15 năm thành lập (2005-2020). Giai phẩm Hoa Biển tập trung vào các đề mục chính: Đối thoại, Biên khảo, Đất và người La Gi, Năm tháng và ký ức, Thơ, Văn xuôi, Ẩm thực, Nhiếp ảnh nghệ thuật… Trong giai phẩm này, nhà văn Nguyễn Hiệp gởi đến bạn đọc bài viết chân tình về người con ưu tú của La Gi - bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Xin giới thiệu với bạn đọc


BÁC SĨ ĐỖ HỒNG NGỌC, NHƯ TÔI BIẾT
                                                      Nguyễn Hiệp

Hàng năm, cứ độ tháng Tám âm lịch, tôi lại được đón tiếp một người khách đặc biệt, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, là ông đưa gia đình về thăm quê tiện thể ghé nhà tôi. Bao giờ cũng vậy, ông cũng dành tặng một quyển sách mới, tôi cảm nhận được sự khuyến khích, tình cảm và những kỳ vọng của bậc đàn anh đồng hương đáng kính nên tự hứa với lòng sẽ viết một bài ngăn ngắn bày tỏ sự ngưỡng mộ đặc biệt về ông, nhưng mãi rồi vẫn chưa thực hiện được. Năm nay, quà của ông là tập truyện tranh “Tấm gương Việt” do Nhà xuất bản Phụ Nữ chọn 6 người có tâm có tầm điển hình ở thành phố Hồ Chí Minh tập hợp thành (trong danh sách đó có ông), tôi cầm quyển sách lòng tràn dâng niềm xúc động và chợt nghĩ tựa sách chính là tiêu ngữ thích hợp cho bài viết mà tôi muốn viết lâu nay. Nhưng khi trình bày ý này với ông thì ông khe khẽ bảo: “Tính anh, em đã biết, thích tĩnh lặng, thích giấu cái tôi của mình đi, nếu em có nhã hứng thì tùy duyên mà viết nhưng theo hướng vui vui thôi”. Và tôi cũng nghe sự hướng dẫn từ tính khiêm cung của ông để viết thật nhẹ nhàng. 

GIỚI THIỆU GIAI PHẨM “HOA BIỂN” - Ấn phẩm tháng 4 của Chi hội VHNT thị xã La Gi


                 

             
GIỚI THIỆU GIAI PHẨM “HOA BIỂN”
    (Ấn phẩm tháng 4 của Chi hội VHNT La Gi)

Chi hội Văn học nghệ thuật La Gi vừa ra mắt giai phẩm HOA BIỂN chào mừng thị xã La Gi tròn 15 năm thành lập (2005-2020). Giai phẩm Hoa Biển tập trung vào các đề mục chính: Đối thoại, Biên khảo, Đất và người La Gi, Năm tháng và ký ức, Thơ, Văn xuôi, Ẩm thực, Nhiếp ảnh nghệ thuật

La Gi là vùng đất giàu tiềm năng, có sông suối, núi rừng nên thơ đẹp như tranh… Nhắc đến La Gi là nhắc đến biển. Biển La Gi, thường xanh biếc, hoà với màu trời cũng trong veo. Trong cái màu xanh biếc ấy, người ta thấy hiện lên những quầng sáng lấp lánh, lấp lánh… và có người gọi đó là Hoa Biển. Hoa Biển làm cho người La Gi nhớ. Hoa Biển làm cho người La Gi say. Chính vì vậy, lấy Hoa Biển đặt tên cho giai phẩm cũng nhằm mục đích làm cho La Gi được biết đến nhiều hơn, cũng như hàm chứa mục đích: các bài viết trong giai phẩm tập trung về La Gi, quê hương La Gi, đất và người La Gi.
Phần thơ và văn xuôi, tập trung phần lớn những cây bút của xứ biển như : Trần Kim Trung, Ngô Văn Tuấn,Thái Anh, Minh Trinh, Ái Liên, La Thuỵ, Nguyễn Huỳnh Sa, Lương Bút… Riêng về truyện ngắn có tác phẩm “Phát Lộc” khá đặc sắc của tác giả quá cố: Trần Vũ Minh. Phần ẩm thực, một nét khó quên của đất và người La Gi, lâu nay ít được khai thác, lần này trong Hoa Biển, hiện lên một cách chi tiết và những con đường, góc phố bán hàng đêm… đầy ấn tượng với người vì lý do nào đó ở xa La Gi. Cũng trong giai phẩm này, nhà văn Nguyễn Hiệp gởi đến bạn đọc bài viết chân tình về “Người con ưu tú của La Gi - bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc”. Trong “Thư Sài Gòn” là câu chuyện, một dòng hồi ức của người ở xa gởi người La Gi, khi nhắc lại bao kỷ niệm đẹp cùng với câu hỏi: bạn còn nhớ hay đã quên?

Với 116 trang sách kể cả bìa, bài viết về La Gi khá tập trung. Những gì yêu thương của La Gi từ trước đến nay đã hiện lên trên những trang sách giai phẩm “Hoa Biển”. Đọc nó, người đọc cảm nhận về La Gi từ xưa cũ đến hiện đại. Đọc nó, người ta bắt gặp cái hồn muôn thuở của La Gi tràn về, lên tiếng gọi, cũng như bảo với chúng ta rằng: hãy tiếp tục nâng niu giữ gìn những gì đã có, đang có!

Thật vậy, khó mà không liên tưởng, không nhớ thương khi đọc đến: “Lagi chốn xưa” của nhà thơ bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, bài ký “Đường về Bình Tuy - nhạc Trúc Phương” của nhà báo Trần Hữu Ngư. Trang nhiếp ảnh La Gi đầy ấn tượng với Đập Đá Dựng của những năm 60 thế kỷ 20; một Cua Ly Ly trong ánh sáng mộng ảo của ảnh Đức Thế. Và nữa, người ta cũng bắt gặp những “góc ẩm thực khuya của La Gi” mà tín đồ ẩm thực thường lui tới. Với “lá thư phương xa” cho ta thấy dấu ấn Lagi trong dòng hồi ức khi nhắc về kỷ niệm đẹp không thể nào quên.

Có thể nói, Hoa Biển ra mắt lần này về phần nội dung, đang dần hướng tới tính chuyên nghiệp. Nó đầy chất địa phương nhưng không hề là sản phẩm địa phương!

Giai phẩm Hoa biển do nhà thơ Đỗ Thị Ái Liên chủ biên. Nhà xuất bản Hội nhà văn cấp phép. Sách ra mắt bạn đọc vào Chủ Nhật, 31 tháng 5- năm 2020, tại La Gi. Giá bán 150 ngàn đồng/ cuốn. Bạn đọc ở xa có thể đặt mua qua cô Ái Liên (số 18 –Thống Nhất- P. Phước Hội- Thị xã Lagi – ĐT: 0824373840).

Xin trân trọng giới thiệu Hoa Biển cùng độc giả.

         

            

           
      
           
   
             
             
          

NHỮNG NGƯỜI Ở VEN RỪNG - Trần Duệ


             
                         Nhà văn Trần Duệ


NHỮNG NGƯỜI Ở VEN RỪNG
                                               Trần Duệ 
     
Cuối cùng Mai cũng lấy được chồng. Đám cưới được tổ chức khi cô gần ba chục tuổi, chấm dứt cái từ “gái ế” mà bà con gọi lén đã nhiều năm qua. Xóm làng đều vui, riêng Mai thì không ai đoán được. Cô sống với người mẹ đã già yếu. Ở miền núi, người ít, đất rừng mênh mông nhưng phần lớn đều của nhà nước. Đất ở hẹp, người đông nên nhiều ngôi nhà nằm ở cạnh nhau trông không giống cảnh vùng cao ngày trước. Nhà của Mai nằm ở cuối thôn, có khu vườn khá rộng, xa nơi đông người. Vào những đêm tối trời, ngôi nhà có ánh điện mờ mờ, nằm khuất dưới vườn cây, trông cũng buồn thiệt. Mai lấy chồng nhưng không theo chồng về làm dâu. Chồng của Mai tên Huy, lớn hơn Mai khoảng bốn, năm tuổi. Nghe nói anh lấy vợ trễ do mãi đeo đuổi chuyện làm thơ, nhưng thực ra ở đây chưa ai từng nghe hoặc đọc thơ của chồng Mai. Gia đình Huy ở xã kế bên, anh em đông, nên chuyện Huy đi ở rể cũng không khiến mọi người bận tâm cho lắm. Một năm sau Mai sinh con gái. Bà con thấy mừng, vì tương lai trong xóm sẽ bớt được một thằng hút, chích, đua xe... Ba năm nữa, vợ chồng Mai ly hôn, bà con lại thấy vui vì xóm làng đã bớt được một thằng đàn ông suốt ngày say xỉn. Bà con đang cần một người làm ra lúa, ra bắp chứ không cần một người làm thơ.