BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 3 tháng 6, 2025

TIẾC NUỐI LĂNG CÔ – Đinh Hoa Lư

Xóm Lăng Cô ngày xưa có một kỷ niệm về một cuộc tình sắt son của ba mẹ tôi hơn nửa thế kỷ trước.
 
Ngày xưa đó đôi tình nhân yêu nhau tha thiết, thắm thiết hẹn hò; vẫn viền cát muôn đời hình bán nguyệt, vẫn những liếp phi lao xanh vi vút gió và những túp lều tranh ẩn hiện. Trong tiếng sóng biển rì rào, bên chân đèo Hải vân cao vòi vọi, xóm vắng Lăng cô này nơi chứng kiến cuộc tình ba mẹ tôi "thề non hẹn biển".


Ngày xưa có lần ba tôi kể lại với tôi, mẹ tôi có mang tôi trong thời gian đó. Ba mẹ tôi quen nhau ngoài Quảng Trị, khoảng đầu thập niên 1950 rồi hai người lại dắt nhau vào tận xóm này. Chẳng lạ chi, do ba tôi có người thân quen ở xóm đó. Quê nội tôi là Truồi. Truồi vào Lăng Cô thì chẳng bao xa.

Thứ Hai, 2 tháng 6, 2025

CHI TIẾT CỦA NHÀ VĂN HAY CON DAO MỔ THỤY VŨ – Nguyễn Hữu Hồng Minh



Cha tôi vào Sài gòn. Nhà sưu tập Nguyễn Trọng Hiệp đã tổ chức cho cha một chuyến đi Lộc Ninh thăm nhà văn Nguyễn Thị Thuỵ Vũ.
Với tuổi già, nhiều bệnh, chân yếu đi lại khó khăn nhưng cha vẫn cảm thấy hồ hởi khi đi gặp những người bạn văn cùng thời ngày xưa.
Đây là cuộc gặp đầu tiên của ông và bà. Nhưng trên văn đàn họ đã biết nhau từ những năm 1960. Cha tôi nhắc tôi lưu ý mấy chuyện sau:


PHONG, LAO, CỔ, LẠI THỰC SỰ LÀ NHỮNG BỆNH GÌ ? – La Thụy


瘋和尚 Phong Hòa Thượng (ông sư điên)

“Phong, lao, cổ, lại” từ xưa được cho là “tứ chứng nan y”, hiện có nhiều cách giải thích không thống nhất.

*
Cách hiểu được số đông chấp nhận là 4 bệnh khó chữa lành theo quan niệm của y học cổ, gồm:

(1) Phong: tức là bệnh cùi, còn gọi là bệnh phung hay bệnh hủi; 
(2) Lao: ho lao, bệnh lao phổi;
(3) Cổ: xơ gan cổ trướng;
(4) Lại: tức là ung thư.
Trong đó, có hai bệnh đã được y học ngày nay chữa lành là phong và lao.
 
Để minh chứng cho cách giải thích trên, người ta đã đưa ra câu nói dân gian: “Phong, lao, cổ, lại; tứ chứng nan y, thầy thuốc bỏ đi, trống kèn kéo tới”. Có nghĩa là 4 bệnh không chữa được, thầy thuốc “bó tay”, chỉ có chết.
Nhưng LẠI được cho bệnh ung thư thì quá mới, ung thư không phải là chứng bệnh trong y học cổ truyền.

Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2025

... MÀ NHỚ TÔI THEO NHƯ BÉN GÓT MÀ THƯƠNG AI KHIẾN MIỆNG EM CƯỜI – Trần Vấn Lệ



Hết tháng Năm.  Trời nắng mấy hôm.  Mưa không mưa được, chứa chan buồn!  Bé thơ đi học, xe vừa chạy.  Gió nhẹ nhàng bay chút bụi đường...
 
Những tiếng cười trong vắt hết nghe...Đường không nhộn nhịp, bớt nhiều xe.  Vẫn đều đặn chỉ là xe bus.  Nhiều công viên... hình như vắng hoe!
 
Hoa nở bên xe đi tưới cò.  Cành nghiêng quyến rũ lũ chim... bay.  Nghĩa trang in ít người thăm viếng.  Thời hỏa thiêu buồn như bóng mây...
 
Tôi chào cô gái vừa ngang mặt.  Cô hello, cười.  Có thế thôi... mà nhớ tôi theo như bén gót, mà thương ai khiến miệng ai cười?
 
*
Bài thơ không lấy gì thơm thảo.  Tôi chắt chiu còn mấy ý thơ.  Tôi biết lòng tôi nhiều nắng lắm, nóng ran tự sáng đến đang trưa...
 
Rồi chiều nay... một chiều hư ảo... nhớ áo dài bay... nhớ dịu dàng... nhớ chấm thật nhiều thêm dấu nhớ... không chừng tháng Sáu có mưa sang...
 
Ai bên Texas, trên Kansas, trên tận Utah... nghĩ thế nào?  Đôi má vẫn hồng hoa tháng Chạp?  Chiếc răng khểnh chắc nhớ ca dao? (*).
 
                                                                                   Trần Vấn Lệ
(*). Mình về mình nhớ ta chăng?
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười...

"RA NHẬP", "THĂM QUAN", TỪ DÙNG NGỘ NGHĨNH !!! - Nguyễn Chương Mt



* "THĂM QUAN"?
 
/1/ Nghe mắc cười lắm, không biết nảy nòi từ lúc nào, nhiều cán bộ đoàn thể rồi...một số anh em làm ngành du lịch nói "thăm quan" (!).
Quí bạn biết không, trong tiếng Việt trước đây, bây giờ vẫn còn nghe, ta nói "thăm Sở Thú", "thăm viện bảo tàng" hoặc "viếng thăm Sở Thú", "viếng thăm viện bảo tàng", hoặc "đi xem Sở Thú", "xem viện bảo tàng".
Tiếng Việt mình giản dị, mà cũng hay hết sức. Nói "thăm" (cái chữ này là Nam âm, thuần Việt, ghi bằng chữ Nôm 𠶀 - không có trong Hán tự) mang rộng nghĩa, trong đó có nghĩa tương đồng là "tham quan" (đây là âm Hán-Việt, ghi bằng chữ Hán 參觀).
[ "THAM" , nghĩa là xem xét; còn "quan" nghĩa là ngắm nhìn ]
Nảy nòi lối nói "thăm quan" là thừa chữ "quan"! Ngay tại Hà Nội mà chữ nghĩa lổn ngổn quá sức!
 

TIỀN ĐỒN NHỚ NƠI PHỐ THỊ - Đinh Hoa Lư

  
          

Ngày đó tôi còn đời lính độc thân, chưa có được diễm phúc quen được người con gái Nha Trang, miền Thùy Dương Cát Trắng.
 
Hàng liễu rũ trong quân trường Đống Đế, một màu xanh thướt tha làm sao? Ôi! chẳng khác chi làn tóc mây mỹ nữ. Mình cứ tưởng tượng một vóc dáng ẻo lả, rồi hình dung đó sẽ theo mình vào "mơ" sau một ngày la -lết tập luyện, mệt nhoài.


Đời lính bộ binh nào dám mơ cao, đâu dám ngang hàng bao chàng trai hào hùng biển cả hay không quân "lướt gió tung mây" cao vút mấy tầng? Từ quân trường Đống Đế những ngày phép ngập ngừng chẳng dám về Nha Trang, một phố thị của miền Thùy Dương chỉ lang thang quanh Cầu Xóm Bóng.
 
Tác giả Đinh Hoa Lư ngày ấy

MIỀN TRUNG HỎA TUYẾN ĐỊA ĐẦU
 
Những người lính bộ binh giã từ quân trường. Đời lính sẽ làm quen với bùn lầy nước đọng, những sườn núi gập ghềnh hay thác réo, vượn hú chim kêu...

NHỮNG BÔNG HOA KHUYA – Thơ Tịnh Bình


   
 

Trên bầu trời đêm
Chong đèn thức cạn
Những vì sao
Như những bông hoa khuya âm thầm khép nở...
 
Đôi khi ánh sáng vầng trăng chỉ là kẻ phá bĩnh
Khi ta cần thắp lên niềm tin nhỏ nhoi giữa nền đêm
Đơn độc ngôi sao
Hàng vạn ánh sao
Có lẽ chúng chỉ cần bóng tối bầu bạn
 
Trả lại màu đêm về phía nửa bán cầu
Những ban mai cất lên ngày mới
Gã mặt trời nhú lên kiêu hãnh
Thản nhiên bầy gió
Khép mơ hồ giấc ngủ hoa khuya...
 
                                                                 Tịnh Bình
                                                                (Tây Ninh)

Thứ Năm, 29 tháng 5, 2025

TRẢ LẠI ÂM GỐC CHO CHỮ - Từ Hán Việt


本命 [bổn mệnh] bị biến thành bản mạng

Theo tục xưa, người dân Đàng Trong kỵ húy các chúa Nguyễn, do đó một số từ ngữ bị biến âm. Không chỉ biến đổi về âm mà còn áp dụng cả trong cách gọi tên các dòng họ.
 
Ngày nay trong ngôn ngữ tiếng Việt đặc biệt là khu vực miền Nam và miền Trung xuất hiện rất nhiều từ đồng nghĩa như: “cây cảnh - cây kiểng, bình hoa - bình bông, hay hành chính - hành chánh”... Những điểm khác biệt này góp phần làm tiếng Việt thêm phong phú, tạo ra sự thích thú khám phá vùng miền. Quay ngược dòng thời gian lịch sử thì những từ ngữ này xuất hiện có liên quan tới việc kị húy trong thời phong kiến.
 

MÁ ƠI MÁ THƯƠNG CON THỔI BUỒN CHO CON KHÓC – Trần Vấn Lệ



Trưa xế chiều Chúa Nhật / không mưa... hết một ngày!  Chuông Nhà Thờ trên mây / rải xuống đầy thành phố...
 
Thành phố tôi đang ở, nhiều người đi Nhà Thờ, rất ít ai thẩn thơ / lang thang thời vong quốc...
 
Ngậm ngùi và nuốt nhục, họ - những kẻ lang thang, không ai bước vội vàng / mà khoan thai... không thấy!
 
Năm mươi năm... họ chạy / nhiều hơn là bước đi... bởi không biết chỗ về, chỉ biết mình đi tới...
 
Đi tới đâu, ai hỏi... nghe họ nha:  Chúng Tôi Tới Chỗ Mà / Chúa, Phật Dang Tay Đón...
 
Họ, có người đội nón, có người để đầu trần... tóc họ như phù vân, lòng họ, phù dung nở...
 
Bạn ơi, bạn chắc nhớ: Phù Dung nở để tàn?  Chúng tôi người Việt Nam / thâm tâm Niềm Thất Vọng!
 
Đi, cốt để tìm sống, chết cũng đành tha ma...Giọt lệ nào tuôn ra /  không là Thơ, bạn nhỉ?
 
Năm mươi năm!  Hai Thế Kỷ!(*).  Chuyện Lịch Sử thật kỳ!  Nhiều trang không thấy lề / vì tả tơi giông bão...
 
Nhiều người không còn áo!  Nhiều người mất giép lê...Họ không ở bên lề... mà nằm xuôi nằm ngược!
 
Huy chương tôi ai tước... chắc nó rơi mất rồi?  Những năm nằm hay ngồi / trại tù, trời vuông vức!
 
Tôi đang ngày Chúa Nhật - một ngày không có mưa... Tôi đi, hình như chưa / lần nào tôi bước vậy!
 
Quên sao? Mắt Má chảy / những giọt lệ trong veo!  Những tiếng chuông chiều chiều... Trời ơi!  Hình giọt lệ!
 
Thành phố đang nhỏ nhẹ... chiếc lá vàng bay bay...
 
*
Bạn ơi bài thơ này / có đầu mà không cuối!  Tôi còn bao lăm tuổi/  hẹn hò gì Nước Non? (**)
 
Má ơi Má thương con / thổi buồn cho con khóc...
                                                                                        Trần Vấn Lệ

(*) Hai Thế Kỷ (30 tháng Bốn Ngàn Chín Bảy Lăm và 30 tháng Bốn Hai Ngàn Hăm Lăm), 50 năm ràn rụa!
(**) Thơ Tản Đà:  "Nước Non nặng một lời thề... Nước đi, đi mãi, không về với non!"
 

THƠ VỀ RƯỢU CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Nhà thơ Trần Hạ Vi giới thiệu.



Lời giới thiệu:
 
Hạ Vi có duyên được biết anh Đặng Xuân Xuyến từ nhiều năm trước, qua những sinh hoạt trao đổi văn thơ với nhau. Anh Đặng Xuân Xuyến cũng có cảm hứng viết một bài bình thơ rất hay cho bài "Tình nhân ơi" của Hạ Vi.
 
Nhân chủ đề Hạ Vi yêu cầu ChatGPT bình thơ và phong cách thơ Trần Hạ Vi, anh Xuyến có gửi Hạ Vi hai chùm thơ, một chùm thơ 14 bài độc vận và một chùm thơ về rượu. Hôm nay Hạ Vi thực hiện một cuộc phỏng vấn vui vui, nhỏ gọn với ChatGPT tập trung xoay quanh chùm thơ về rượu từ đó có thể nhìn ra điểm mạnh điểm yếu và phong cách thơ của anh Đặng Xuân Xuyến. Tất cả câu trả lời đều là của AI (ChatGPT), Hạ Vi chỉ đặt những câu hỏi gợi mở. Xin mời mọi người đọc tham khảo.

NHẠC BOLERO NGƯỜI BẠN TRI KỶ CHO TÂM TƯ NGƯỜI VIỆT - Đinh Hoa Lư

Chớ bảo ta yêu nhạc bolero do tâm hồn ta quá “sến”, mà đây là tiếng lòng chân thật của ta vui buồn sẻ chia, chứ không kiêu kỳ cách biệt.

Tiếng lòng hay tâm tình hòa điệu với tình cảm quê hương, trăn trở qua bao thăng trầm khổ đau lịch sử hay nỗi than thở của dân mình.


                       

Buồn vào hồn không tên,
Thức giấc nửa đêm nhớ chuyện xưa vào đời
Đường phố vắng đêm nao quen một người
Mà yêu thương trót trao nhau trọn lời...
Để rồi làm sao quên?
Biết tên người quen, biết nẻo đi đường về
Và biết có đêm nao ta hẹn hò
Để tâm tư những đêm ngủ không yên...

Thứ Hai, 26 tháng 5, 2025

PHÁC THẢO ĐÊM, EM VÀ TÔI - Thơ Hoàng Chẫm, nhạc và trình bày Tố Mai


Nhà thơ Hoàng Chẩm


                


PHÁC THẢO ĐÊM EM VÀ TÔI
 
Vẽ đêm hao khuyết phận người
Nghe từng lọn tóc vọng lời tri âm
Qua tôi một phiến tình câm
Rơi vào khoảng lặng cho trầm kha nhau
 
Vẽ em một nét úa nhàu
Ta về góp nhặt lại màu phôi pha
Nghiêng lòng một thoáng vời xa
Từ trong tiền kiếp như qua mộng thường
 
Vẽ tôi bóng dáng mù sương
Mơ về viễn xứ giữa đường nhân gian
Chong đèn ngược với thời gian
Lưng chừng nỗi nhớ là hàn huyên thương.
         
                                              Hoàng Chẫm

KHÚC VE TRƯA, TRONG BUỔI SÁNG NÀY – Thơ Tịnh Bình


   

 
KHÚC VE TRƯA
 
Chợt gọi về da diết khúc ve trưa
Hạ chang chói thắp màu phượng lửa
Gầy thương nhớ bóng hình ai biền biệt
Sỏi đá cựa mình bước chân cũ buồn tênh
 
Nghe tha thiết khúc hạ tình chưa dứt
Đường hoa xưa đâu sắc tím đợi chờ
Qua lối vắng ước một lần tái hiện
Giọt mưa chiều lấp lánh sợi trong veo
 
Rơi thảng thốt ánh nhìn như quen lắm
Cánh diều bay chấp chới phía hoàng hôn
Ta cúi nhặt tiếng cười ai trong vắt
Gió dịu dàng miền lá biếc lao xao
 
Chiều rắc xuống muôn vàn thương nhớ cũ
Phía ngày xưa cứ ngỡ đã phai màu
Chỉ tại khúc ve nhói lòng ta chi nữa
Mỗi hạ về trách phượng cứ đơm bông...
 

BÀI THƠ BUỒN LÀM TRONG NGÀY CHÚA NHẬT – Trần Vấn Lệ



Trời hôm nay có vẻ / một nửa nắng nửa mưa.  Bình minh mà mờ mờ, chim không về ríu rít.
 
Mưa ngày mai mới thiệt.  Mưa hôm nay chắc không.  Bão chắc chuyển khác luồng.  Hy vọng Chúa Nhật đẹp...
 
Sống, bây giờ thời tiết / chuyện lo lắng từng ngày / của nhiều người đi "cày" / để trả nợ cơm áo...
 
Vài năm nay điên đảo, biển đổi thời tiết hoài.  Bão, lut giết nhiều người, mả mồ không còn nữa...
 
Sống mưa dầu, nắng lửa, chết lò lửa hỏa thiêu...Bình tro gửi hơi nhiều, nhiều kệ Chùa sập, đổ...
 
Cái gì thấy... là ngó, còn ngắm thì thôi, đi...Có nghe tiếng thở dài... người xa người, xa xứ...
 
*
Năm mươi năm dang dở, bỡ ngỡ rồi quen dần... mà nhàn nhạt tình thân:  ông, bà, con, cháu...lợt...
 
Nguyễn Du dùng chữ "lợt" hai câu thơ nghẹn ngào:  "Quê người cỏ lợt màu sương, đường đi thêm một tấc đường một đau!".
 
Đau có nghĩa là sao? Cứ nói:  "Đau Thiệt Chớ!" y chang như đứa nhỏ / than khi trợt bước chân...
 
Hôm nay...
Tôi bâng khuâng:  Trời nửa mưa nửa nắng.  Cái mặt sẩn phẳng lăng, đồ ẳn cho chim, chờ...
 
... Có lẽ chờ bài thơ.  Buồn. Buồn.  Buồn. Chúa Nhật. 
 
                                                                                      Trần Vấn Lệ

NHẶT NẮNG – Thơ Nguyễn Bính


   

Cô gái nhà ai ở xóm Đông,
Sang đây một sớm nắng vàng trong,
Cùng hai cô bạn bên bờ giếng,
Nhặt nắng trong cây, kể chuyện lòng.
 
Tôi về dưỡng bệnh ở nơi đây,
Nhà trọ thân đơn tối lại ngày,
Từ buổi nhìn qua song cửa sổ,
Bệnh dường như khỏi, dạ chưa say.
 
Tôi ở thôn Đoài, cô thôn Đông,
Biết còn gặp gỡ được nhau không?
Cách hai bờ giếng nhưng xa cách,
Như kẻ đầu sông, kẻ cuối sông.
 
Giếng cạn nên khôn thả cá vàng,
Khôn nhờ gió sớm nhắn tin sang.
Lá ơi và gió ơi! tôi biết
Tình chửa chung đôi đã lỡ làng.
 
Cô chẳng bao giờ biết đến tôi,
Mà tôi dan díu mấy đêm rồi.
Mấy đêm dan díu người trong mộng,
Mộng tỉnh, canh tàn, châu lệ rơi…
 
Chòm hoa dâm bụt bên bờ giếng,
Nở đỏ như muôn mảnh lụa điều.
Tôi dối lòng tôi nên chẳng dám,
Nhận là mình đã bắt đầu yêu.
 
Nhà trọ từ nay thêm bóng cô,
Nhưng tôi hồn mất tự bao giờ!
Tôi mong nhớ lắm! tôi mong mỏi
Một buổi nào đây chẳng hẹn hò.
 
Cô lại sang đây, cô lại ngồi,
Bên bờ giếng nhặt nắng vàng rơi.
Nắng vàng rơi mãi bên bờ giếng,
Sao nắng vàng không hẹn một lời?

Tình có cho đi chẳng có về,
Lòng kêu gọi mãi chẳng ai nghe.
Cho nên từ đấy tôi ngơ ngẩn,
Làm những bài thơ lạc cả đề.
 
                       Nguyễn Bính

Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2025

SỰ PHA TRỘN GIỮA "NHẠC SANG" VÀ "NHẠC SẾN" TRONG LÀNG NHẠC VIỆT TRƯỚC 1975 - Đông Kha




Không phải bây giờ, mà đã từ trước năm 1975, giới nghệ sĩ và công chúng đã phân biệt rạch ròi hai dòng nhạc mà ngày nay người ta thường nói là “nhạc sến” “nhạc sang”. Xin nói thêm rằng khái niệm “nhạc sến” được nhắc tới trong bài này mang ý nghĩa tương đối, không có ý miệt thị. Trước 1975, người ta không dùng từ “sang” hay “sến”, mà dùng chữ “nhạc đại chúng” để nói về các bài hát giai điệu bolero, rumba… và “nhạc thính phòng” để nói về các giai điệu “sang cả” hơn: slow, boston… mang âm điệu của dòng nhạc thời tiền chiến. (nhạc thính phòng ở đây không phải chỉ là những bài nhạc opera như cách hiểu hiện nay).

Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2025

LANG LÀ CHÀNG – Phiếm luận của Đỗ Chiêu Đức



CHÀNG chữ Nho là LANG . Như hai câu trong bài ngũ ngôn trường thiên "Trường Can Hành" của Thi Tiên Lý Bạch :
                
郎騎竹馬來,     LANG kỵ trúc mã lai,               
繞床弄青梅.     Nhiễu sàng lộng thanh mai.
      
Có nghĩa :
                   
CHÀNG cưởi ngựa tre đến,                 
Quanh giếng ghẹo mai xanh.   
      
Đó là lời của người vợ trẻ nói về chồng mình khi hai đứa cùng lớn lên ở xứ Trường Can từ thuở nhỏ, họ là THANH MAI TRÚC MÃ 青梅竹馬 của nhau. Nên LANG là CHÀNG, là CHỒNG; Vì thế TÂN LANG 新郎 là "Chồng mới", là "Chú rể mới". Trong bài hát nói (Ca trù) "Tuổi già cưới Vợ hầu" của Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ có hai câu chữ Nho như sau:
                 
新娘欲問郎年幾,  TÂN NƯƠNG dục vấn LANG niên kỷ,
五十年前二十三.     Ngũ thập niên tiền nhị thập tam!
      
Có nghĩa:    
                      
Cô dâu muốn hỏi CHÀNG bao nả ?                      
Năm chục năm xưa hai mươi ba ! 
            
- Nếu cô dâu mới muốn hỏi CHÀNG bao nhiêu tuổi, thì xin đáp rằng...     
- Năm mươi năm trước mới có hai mươi ba tuổi thôi ! Có nghĩa, trước mắt thì CHÀNG RỂ MỚI nầy đã "Bảy mươi ba tuổi" rồi ! Chớ không còn là...
 

HUYỀN KIÊU VỚI TÌNH SẦU VÀ TƯƠNG BIỆT DẠ - Trần Hoàng Phước Hậu sưu tầm & biên soạn



Huyền Kiêu tên thật là Bùi Lão Kiều, bút hiệu Huyền Kiêu do từ chữ "Kiều" mà ra, là một nhà thơ thời tiền chiến, sinh năm 1915 tại Hà Tây, nhưng cư ngụ ở Hà Nội. Vào thập niên 40 của thế kỷ 20, ông viết văn, làm thơ, cộng tác với các báo ở Hà Nội, và nổi tiếng từ đó. Sau 1975 ông vào sống ở Sài Gòn và mất ở nơi đó vào ngày 8 tháng 1 năm 1995, thọ 80 tuổi.
 
Lúc ở Hà Nội, Huyền Kiêu với thi sĩ Đinh Hùng vốn là bạn thân từ thuở nhỏ. Cho nên khi bắt đầu gia nhập làng báo, làng văn; nhờ người bạn này, mà Huyền Kiêu sớm trở thành bạn thân thiết của Vũ Hoàng Chương, Thạch Lam, Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Tường Bách...

Thứ Năm, 22 tháng 5, 2025

NGUYỄN CÔNG HOAN GIÂY MÁU ĂN PHẦN - Ivan Nhieukhekov


Ảnh cụ Phan Khôi

Nguyễn Công Hoan là nhà văn nổi tiếng. Thời chúng tôi học phổ thông cũng có học tác phẩm “Bước đường cùng” của ông. Tuy vậy, tôi thích nhất những truyện ngắn của ông, kiểu như “Oẳn tà roằn”, chúng gây cười bất ngờ. Lớn hơn thì tôi cũng được đọc các truyện dài và tiểu thuyết của ông vừa mới in ra, như “Tranh tối tranh sáng”“Hỗn canh hỗn cư” và đặc biệt là “Đống rác cũ”, vừa bán ra đã bị thu hồi, may là kịp mua được một bộ.

HẠ ĐỎ CÓ CHÀNG TỚI HỎI EM THƠ CHỊ ĐẸP EM ĐÂU – Trần Vấn Lệ



Đã thật sự vào Hè.  Tin thời tiết cho biết:  nhiều ngày nắng, nắng thiệt / độ nóng sẽ tăng lên...
 
Mình... bắt đầu phải quên / tháng Giêng trời lạnh buốt.  Tháng Hai, Ba, Tư rét ngọt... để nếm mùi tháng Năm!
 
Chắc chắn là tháng chung / nhiều Tiểu Bang bức bối:  Arizona, New Mexico... thật tội, có bão cát không chờ...  
 
Mùa Hè là mùa Thơ / của Huyền Kiêu trên hết?  "Em thơ này Chị Đẹp / của em đi đâu rồi?".
 
"Chị Đẹp em đi chơi... đi ra đồng đuổi bướm...".  Cái khăn choàng chị nhuộm / màu thời gian theo mùa...
 
Huyền Kiêu không nói mưa... ướt tóc của Chị Đẹp.  Tình Yêu thường xanh biếc, đỏ, hồng hay tím than...
 
Mình nghĩ tới màu vàng, cái khăn choàng Công Chúa. Mình mơ làm phò mã / dắt con ngựa màu hồng...
 
Nàng Công Chúa lấy chồng, mình phò mã hứng nắng / tô cho môi nàng thắm / tô cho lòng nàng thơm...
 
*
Em à, anh muốn hôn / bàn tay em thời tiết, môi em viền ánh nguyệt, má em hoa đào Xuân...
 
Thơ chỉ là bâng khuâng... mà tự dưng bắt được... Thời gian đang từng bước, người thương là nhớ thương!
 
Thế mới thấy dặm trường... dài biết bao sợi tóc!  Thế mới thấy Tổ Quốc... mình còn nguyên bốn mùa!
 
                                                                                      Trần Vấn Lệ

NGUYỄN ĐỨC SƠN, "TÔI NGHE TÔI CHẾT GIỮA TRỜI THINH KHÔNG!" - Phạm Hiền Mây



I. NGUYỄN ĐỨC SƠN - MỘT TRONG BA KỲ NHÂN CỦA
VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM TRƯỚC 75
 
Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn (1937-2020), hay còn gọi là Sao Trên
Rừng, Sơn Núi, đều chỉ là một người.
Trước năm 1975, người hâm mộ cho rằng, ông là một trong ba kỳ
nhân của miền Nam, hai người kia là Thế Phong và Phạm Công
Thiện. Cũng như, ông là một trong bốn tứ trụ thơ thời ấy, ba người
còn lại là Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền và Tô Thùy Yên.
 
Còn tôi, thì từ lúc bắt đầu đọc thơ ông, kết bạn với ông trên trang
facebook, tôi nhận ra ông vừa là bậc kỳ tài về thơ vừa lại có đôi
phần kỳ dị trong tính cách.
 
Tính cách ông, từ trẻ, đã như con ngựa chứng. Đến già, ông cũng
vẫn thế, bất kham và yêu thích tự do. Ông tự do trong chọn lựa
cuộc sống riêng cho mình, tự do khi suy nghĩ, tự do lúc nói năng,
vậy mà khi vào thơ, ông lại đa phần, chọn cho mình một thức thơ
gò bó, một thể thơ có luật lệ, đó là thơ lục bát.
 

Thứ Ba, 20 tháng 5, 2025

BÙI GIÁNG VÀ “LỜI VĨNH BIỆT” – Tran Ho Dung


Nhà thơ Bùi Giáng qua nét vẽ của họa sĩ Trương Đình Uyên,

Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng Thanh Châu, xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, là con thứ của ông Bùi Thuyên và bà vợ thứ hai là bà Huỳnh Thị Kiền nên được gọi là Sáu Giáng.
 

DANH CA Ý LAN, TÀI SẮC VẸN TOÀN – Đàng Sa Long



Dù đã ở tuổi 67, nữ nghệ sĩ này vẫn khiến công chúng trầm trồ bởi vẻ đẹp quý phái, thần thái trẻ trung như phụ nữ tuổi 40.
Trong làng nhạc Việt, Ý Lan từ lâu đã trở thành biểu tượng của sự duyên dáng, quý phái, tài hoa và bản lĩnh. Được biết đến như một trong những nữ danh ca nổi bật từ đầu thập niên 1990 đến nay, bà không chỉ chinh phục khán giả bằng giọng hát như rót mật vào tim, mà còn bởi vẻ đẹp kiều diễm, "sắc nước hương trời".