BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2025

VẤN VƯƠNG, VƯƠNG VẤN, VẤN VÍT - Hoàng Tuấn Công


 
Đề thi môn tiếng Việt lớp 4 của Trường Tiểu học Điện Biên 1 (TP Thanh Hoá, năm học 2021 – 2022), yêu cầu học sinh nhận diện từ láy như sau:

“Từ nào không phải từ ghép: A. châm chọc; B. vương vấn; C. phẳng lặng; D. nóng nực”.
Học sinh khoanh tròn vào phương án “B. vương vấn”, và được chấm là đúng (câu 7: 0,5 điểm).
 
Từ điển từ láy tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ - Hoàng Văn Hành chủ biên) cũng thu thập, giảng từ “vương vấn”“Cứ phải nghĩ đến, nhớ đến mà không thể dứt ra được mặc dù không muốn thế”, và lấy ví dụ “Vương vấn chuyện gia đình. Xa nhau rồi mà lòng còn vương vấn”; còn ở mục từ “vấn vương” thì giảng là “như vương vấn”, ví dụ “Suy nghĩ vấn vương; Cho nắng hường vấn vương muôn ngàn sợi” (Hàn Mạc Tử)”.
 
Tuy nhiên, “vương vấn” hay “vấn vương” đều là từ ghép đẳng lập, không phải từ láy. Cụ thể:

-"Vương" nghĩa là mắc vào, dính vào, thường là vô tình, ngoài ý muốn (như "Bỏ thì thương, vương thì tội" – Tục ngữ; "Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng" - Kiều).

- "Vấn" , gốc Hán vốn chỉ việc mặc đồ tang thời xưa, phải để đầu trần, cột tóc, dùng vải gai quấn đầu. Về sau, từ này được dùng với nghĩa quấn, cột, cuộn thành nhiều vòng (như vấn khăn; vấn tóc nói chung, cùng nghĩa với vấn trong vấn vít).

Lại nói về từ “vấn vít”.

 Từ điển từ láy tiếng Việt (sách đã dẫn) thu thập và giảng “vấn vít” là: “1. Xoắn lại với nhau nhiều vòng. Dây leo vấn vít quanh gốc cây cổ thụ. “Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ” (Nguyễn Du). 2. Luôn luôn vương vấn trong trí, trong lòng. Đầu óc vấn vít nỗi nhớ thương”.

Tuy nhiên, “vấn vít” cũng là từ ghép đẳng lập. Như đã phân tích ở trên, “vấn” nghĩa là quấn, cột làm nhiều vòng (như vấn khăn; vấn đầu; Vấn tóc cho gọn lại); “vít” là kéo xuống, kéo cong xuống hoặc kéo lại gần (như vít xuống; vít cành cây; vít cần rượu).
 
Các loại dây leo thuộc họ bầu bí dùng “tay” vươn ra, bám vào các cành nhánh của cây chủ, rồi vít, kéo lại để bò lên, sau đó thân của nó vấn/quấn nhiều vòng quanh cây chủ; cây bò lan đến đâu thì “vấn vít” đến đấy. Nghĩa rộng của “vấn vít” được hiểu như vấn vương/vương vấn (Nàng còn đứng tựa hiên tây/ Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ - Kiều).
 
Như vậy, các em học sinh được dạy rằng “vương vấn”, “vấn vương”, “vấn vít” là từ láy. Từ điển cũng cho là như vậy. Mà một từ được xem là từ láy, thì hầu như người ta sẽ không quan tâm đến nghĩa của từng yếu tố “vương” là gì, “vấn” là gì nữa. Trong khi nếu được giảng: “vương” ở đây là mắc vào, dính vào, “vấn” là quấn lại, buộc vào; nghĩa ẩn dụ chỉ việc thường cứ phải nghĩ đến, nhớ đến điều gì đó không thể dứt đi được, giống như bị “vương” (vướng mắc vào), bị “vấn” (quấn, buộc vào),… thì các em sẽ hiểu sâu thêm nghĩa của từ ngữ và cảm nhận được cái hay cái đẹp của tiếng Việt.
 
                                                                             Hoàng Tuấn Công

1 nhận xét:

meo nói...

Cũng khá thú vị.
Cháu qua thăm và chúc chú luôn có nhiều niềm vui trong cuộc sống.