Phật Đản mở đầu cho mùa An Cư Kiết Hạ năm nay (Phật Lịch 2568 – Tây Lịch 2024), đạo Phật Việt Nam trong cũng như ngoài nước có hiện tượng xao động bất thường với sự xuất hiện của “Sư Thích Minh Tuệ”.
Nếu gọi một cách thân thiện và gần gũi với hệ thống giáo lý Phật môn thì người xuất gia, bất kỳ tuổi nào chưa thọ Đại giới (Cụ Túc giới) để thành Tỳ kheo, Khất sĩ thì ở hàng Sa Di và được gọi với danh vị là "Chú"; nhưng ở đây xin gọi danh vị công bằng cho một người tin và tu theo con đường Phật lý là “Tu sĩ Minh Tuệ - Ts MT”. Đây là một nhân vật chỉ nhận mình là người tín tu theo đạo Phật), theo chí hướng và hạnh nguyện riêng của mình, không theo môn phái, chùa viện hay đạo tràng, tăng đoàn, giáo hội nào cả. Tuy nhiên, qua hành trạng tương tự với hình ảnh các nhà tu truyền thống, cổ điển nên dư luận và định kiến của đại chúng đã rầm rộ khoác lên TsMT những nhãn hiệu đã có sẵn từ truyền thống và định kiến như Hạnh Đầu Đà, Du Phương Tăng… Xin dành khuynh hướng “chính danh” cho đại chúng và thời gian.
Đạo Phật là một tôn giáo hay hiện thực hơn nữa là một hệ thống giáo dục, triết lý, giới luật “siêu tôn giáo” giúp con người giải khổ tìm vui. Để tiến tới tâm thế an lạc hé cửa vào cho khả năng giác ngộ và giải thoát sau cùng, mọi động thái hỗ trợ cho mục đích cứu khổ đều là pháp môn phương tiện. Đạo Phật thường nói đến tám vạn bốn ngàn – mà thật ra là vô lượng – pháp môn như Đức Phật đã truyền ngôn từ giây phút đầu hiện thế ở vườn Lâm Tỳ Ni rằng, mỗi người là một cá thể duy nhất tự cầm ngọn đuốc chân tâm, bản lai của chính mình mà lên đường tìm phương giải thoát.
Tu sĩ Minh Tuệ (TsMT) là ai?
Hoàn cảnh xuất thân của TsMT xuất hiện quá nhiều trên các trang mạng xã hội. Từ những ý tưởng cường điệu, đại ngôn ví von TsMT với hình ảnh của Phật, của Chúa đến những phản biện phủ nhận tính chính danh và thiện lành trong sáng của TsMT xuất hiện ồ ạt theo cảm tính nóng bỏng tức thời như một phản ứng có điều kiện của khối đại chúng đang bị dồn nén, bức xúc giữa hai bờ đạo và đời, thánh và phàm, tịnh và động, tự tại và bon chen, tu và tục, thanh quy và phóng dật… của hàng tu sĩ trong các tôn giáo thời hiện đại. TsMT, vô hình chung, trở thành một “nguyên cớ”, chứ không phải là nguyên nhân, của tâm lý phản kháng đại chúng trước những biểu hiện tiêu cực cũng như tệ nạn tôn giáo đang trên đà tăng tốc!
Phóng viên Tiền Lê báo Tiền Phong đã trực tiếp gặp ông Lê Xuân, 84 tuổi, thân phụ của TsMT và đã tường thuật trên số phát hành ngày Chủ Nhật (19/05/2024, 19:16:09 GMT+7) với nội dung xin được tóm lược những nét chính như sau:
Cách thành phố Pleiku (Gia Lai) chừng 40 cây số, ông Lê Xuân, 84 tuổi, thân sinh ra TsMT cùng vợ sống trong căn nhà hai tầng khang trang ở một xã của huyện Ia Grai (Gia Lai). Dù lớn tuổi nhưng ông Xuân vẫn rất khoẻ mạnh, minh mẫn.
Ông Xuân kể, cách đây hơn 30 năm, ông cùng gia đình từ huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh) vào huyện Ia Grai (Gia Lai) lập nghiệp. Ông Xuân cùng vợ có 3 người con trai và 1 người con gái. Trong đó anh Lê Anh Tú (TsMT) là người con thứ hai, hiện đã 43 tuổi.
Ông Xuân chia sẻ, ngay từ nhỏ, Tú là người con trai hiền lành, hiếu thảo, học lực khá nên được mọi người quý mến. Học xong phổ thông, theo nghiệp bố, anh Tú đi bộ đội chừng 3 năm, sau đó theo học Trường Trung cấp Lâm nghiệp Tây Nguyên (Gia Lai).
Ra trường, anh Tú làm đo đạc cho một công ty tư nhân ở Đắk Lắk. Thời điểm này anh Tú đọc những sách về Phật nên đã ăn chay, tu tại gia. Gia đình hồi ấy cũng khá lo lắng vì không thấy anh có bạn gái, tâm tư cũng không muốn lập gia đình.
Cách thành phố Pleiku (Gia Lai) chừng 40 cây số, ông Lê Xuân, 84 tuổi, thân sinh ra TsMT cùng vợ sống trong căn nhà hai tầng khang trang ở một xã của huyện Ia Grai (Gia Lai). Dù lớn tuổi nhưng ông Xuân vẫn rất khoẻ mạnh, minh mẫn.
Ông Xuân kể, cách đây hơn 30 năm, ông cùng gia đình từ huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh) vào huyện Ia Grai (Gia Lai) lập nghiệp. Ông Xuân cùng vợ có 3 người con trai và 1 người con gái. Trong đó anh Lê Anh Tú (TsMT) là người con thứ hai, hiện đã 43 tuổi.
Ông Xuân chia sẻ, ngay từ nhỏ, Tú là người con trai hiền lành, hiếu thảo, học lực khá nên được mọi người quý mến. Học xong phổ thông, theo nghiệp bố, anh Tú đi bộ đội chừng 3 năm, sau đó theo học Trường Trung cấp Lâm nghiệp Tây Nguyên (Gia Lai).
Ra trường, anh Tú làm đo đạc cho một công ty tư nhân ở Đắk Lắk. Thời điểm này anh Tú đọc những sách về Phật nên đã ăn chay, tu tại gia. Gia đình hồi ấy cũng khá lo lắng vì không thấy anh có bạn gái, tâm tư cũng không muốn lập gia đình.
“Gần 10 năm về trước Tú có đọc sách về Phật pháp nên phát nguyện đi tu. Lúc ấy tôi nói đi tu rất khó khăn nhưng đã quyết thì phải tu trọn vẹn, không được phá giới, phải chân cứng đá mềm, không tham lam sân si. Lúc đi Tú để lại cho tôi một cái đồng hồ, điện thoại, tủ lạnh, 8 mét vải màu vàng.”
“Từ nhỏ Tú đã có lòng từ bi với mọi người, không bao giờ muốn làm ai buồn lòng. Ai em nó cũng xem là cha mẹ, phải học hỏi.”
Trong các lần trả lời trực tiếp với đại chúng các “phóng viên đường phố”, Ts MT đã xuất hiện trên các trang mạng với hình tướng và ngôn ngữ ái hòa, chơn chất qua lời chia sẻ trước sau như một rằng: Mình tự tìm hiểu đạo Phật qua kinh sách như Nikaya và nuôi chí tu theo Phật từ lâu nhưng mãi đến vào chặng đời 34 tuổi mới xuất gia. Tuy đầu tiên cũng có vào chùa (với Tu sĩ Phật giáo Thích Chân Quang ?) nhưng chỉ sau năm bảy tháng, thấy không hợp với môi trường tu học nên rời chùa ra đi và chỉ tin hành theo Phật. Vì nhận thấy hạnh tu một mình, tự chế tối đa, du phương khất thực… thích hợp với mình nên quyết chí tu hành theo hướng “du sĩ khổ hạnh”. Từ đó “nhất bát thiên gia phạn, cô thân vạn lý du” - một bát cơm nghìn nhà, một mình đi vạn dặm” sống bằng thực phẩm hành và khất mỗi ngày một bữa từ mọi người mọi nhà không phân biệt trên đường thiên lý độc hành. Và, TsMT cũng chỉ vào y phục của mình để tự xác định rằng, đó là màu sắc “Cái Bang”, chắp vá từ những mảnh vải phế bỏ, không chạm đến màu vàng của thế giới tu hành Phật giáo thời hiện đại hay của bất cứ phương phái nào để giữ hướng tu hành tự nguyện của riêng mình.
Kết hợp lời thuật của ông Lê Xuân và lời xác quyết về khuynh hướng xuất gia theo đạo Phật của Ts MT, cả hai đều có sự nhất quán về hoàn cảnh, bản chất và hành trạng từ khi sinh ra cho đến thời xuất gia trong non 10 năm qua. Sự nhất quán đó xác định đôi nét tiêu biểu gồm cả hai mặt đời và đạo trong một con người của Ts MT rằng:
Xuất thân từ một gia đình khiêm tốn ở chốn đất nghèo miền Trung (Hà Tĩnh), Ts MT là một người con bình thường, hiền hòa và nhân hậu (lo học, hiền lành, hiếu thảo và thương người); là một công dân tốt (học ra trường, đi bộ đội theo nghĩa vụ, có công ăn việc làm ổn định). Với ý hướng tìm hiểu đạo Phật từ thuở thiếu thời, càng lớn lên càng có tâm nguyện xuất gia tu Phật và tới độ tuổi 30+ chín chắn, Ts MT đã xuất ly gia đình tu theo đạo Phật.
Trong dòng sinh mệnh và truyền thừa của đạo Phật, khi nói đến Tăng đoàn và những bậc tôn túc, thường nói đến các bậc hữu học và các bậc vô học. Bậc hữu học là những vị được “sư phụ” bổn sư truyền dạy thông qua quá trình học tập và giáo dưỡng bình thường. Các bậc vô học cao hơn một bậc là “vô sư tự ngộ” với sở học và sở chứng tự mình tìm hiểu, học hỏi, chiêm nghiệm, quán niệm, thực chứng mà hiểu đạo và hành đạo. Đạt Ma Tổ sư suốt 9 năm ngồi im lặng tọa thiền nhìn vách tường chùa Thiếu Lâm với thần khí sáng ngời (cửu niên diện bích). Lục tổ Huệ Năng không hề biết chữ nhưng thần trí quán thế vì chữ chỉ là ký hiệu giới hạn không đủ làm phương tiện truyền tâm. Đức Phật là bậc Giác ngộ tự tu, tự chứng tới đỉnh Thiên Nhân sư là những biểu tượng đường tu tự độ như thế.
Tính phương tiện trong đạo Phật quả nhiên là một vũ trụ diệu kỳ nên những người học Phật, theo Phật và hành đạo Phật trong 26 thế kỷ qua không ai giống ai trên hành tinh này nhưng điểm đích sau cùng không sai khác: Đấy là con đường tìm cầu an lạc và giác ngộ, là Nẻo Đạo của riêng mình. Ts MT có phương tiện thiện xảo riêng trên con đường đã chọn. Trong những nghìn năm qua, khắp cái thế giới Ta Bà hưng vong chìm nổi nầy, đạo Phật đã trở thành một thực thể… trùng lai, bởi đạo Phật đến với con người vừa là vấn nạn, vừa là đáp án. Vấn nạn của Khổ (Dukkha) và cứu khổ. Cứu khổ thì có vô lượng pháp môn làm phương tiện. Vạn pháp bình đẳng. Mỗi sinh linh đều tùy theo căn cơ và ngã tướng, ngã sở để tìm cầu con đường cứu khổ cho mình, không có ai hay bất cứ một sinh thể nào có uy quyền hay năng lực nắm độc quyền phương tiện. Ts MT có phương tiện tu hành (mà mục đích cuối cùng cũng là tìm cầu sự cứu khổ cho mình) và bậc thượng thủ, thượng tôn, thượng sư, thượng đức… nào, nếu chưa chứng quả, giác ngộ thành Phật thì cũng là một Phật tử “tùy duyên” đang lang thang “vĩnh vi lãng đãng phong trần khách” tìm đường cứu khổ giữa dòng đời gió bụi nầy mà thôi.
Bởi vậy, đức Phật đã để lại Tam Pháp Ấn. Đó là cái khuôn dấu Chánh Pháp bao gồm cả nhân sinh quan, vũ trụ quan, bản thể luận của nhà Phật với 3 dấu ấn chân pháp: Khổ, Vô Thường, Vô Ngã. Sống và ứng xử khế hợp với nguyên lý Tam Pháp Ấn thì cho dẫu bất cứ dưới hình thức, danh nghĩa cá nhân hay bộ phái nào cũng đều là đệ tử, là người theo Phật. Đức Phật dạy trong kinh Nikaya Trung Bộ rằng: Ai nguyện nương tựa Phật lý và nương theo Phật pháp để tu hành tự độ cứu khổ, kẻ ấy là người theo Phật. Đấy là một thái độ tự giác khi nhận ra chân lý và nương theo chân lý để cải thiện cuộc sống của mình, hoàn toàn tự nguyện, tự giác, không cần phải thông qua một hình thức lễ nghi nào.
Trường hợp cụ thể của Ts MT đã dụng công học hỏi, tìm hiểu về đạo Phật từ thuở thiếu thời và lớn lên tự xuất gia hành trì theo con đường khổ hạnh của nhà Phật với cả thân và tâm qua hơn 6 năm không hề thối chuyển là một hình ảnh điển hình của khuynh hướng tự giác và tự phát theo Phật.
Bởi vậy, trong bối cảnh Phật giáo Việt Nam hiện nay, sự xuất hiện của một tu sĩ “ngoài luồng” như Ts MT đã gây nên những phản ứng trái chiều giữa đại chúng cũng như hàng tu sĩ “trong luồng” mà Ts MT đã nói về mình rằng: “Con không liên quan gì tới tu sĩ Cung đình, Quý tộc…” Phản ứng quần chúng trong thời gian qua đã nóng lên một cách bất ngờ! Kể cả tứ chúng Phật tử, đại chúng trí thức và bình dân, những nhà lãnh đạo có thẩm quyền đương đại của Phật giáo trong nước và kể cả các linh mục đạo Công Giáo quan tâm.
Đạo Phật là Trung Đạo, hai bờ phải trái cực đoan: Một là ca tụng Ts MT như một bậc chân tu sáng ngời cao khiết đầy phạm hạnh -- hay ngược lại 180 độ -- thóa mạ Ts MT là kẻ điên khùng, bất trí, bất thường, thoái đạo… đều rơi vào hai vọng nghiệp thái quá hoặc bất cập, ra ngoài nẻo đạo từ bi, trí tuệ Phật Đà.
Những điều trông thấy
Mười ngày sau Tết Nguyên Đán Nhâm Thìn 2024, chúng tôi về thăm Việt Nam sau hơn 7 năm chưa về lại. Với lớp tuổi ta, thiếu 1 tuổi đầy 80, tôi không còn ảo tưởng về lại quê hương, làng cũ để làm một việc gì “nên nỗi” hay tìm một cái gì to tát về bất cứ phương diện nào như những giấc mơ của thời trung niên đầy phong độ. Tuổi già như cỗ xe tứ mã với ngựa già xe cũ: Trong chính trị thường bám chấp và níu kéo; trong văn học nghệ thuật thường lẩn thẩn núp bóng ngày xưa; trong tôn giáo, tâm linh thường bị quá đà thấy mình như đang trên đường… gặp đạo! Bởi tự biết rõ mình hơn, tôi chỉ còn tự chọn cho mình một thái độ đối với các chùa viện, nhà thờ, am cốc và những chốn tâm linh ở quê nhà là “hành hương cầu thị”; trải rộng lòng mình để tìm về nguồn cội mà chiêm ngắm, tự trầm trồ khen thầm, tâm phục nhiều hơn là phê phán.
Vốn tuổi già ít ngủ, tôi thường thức dậy sớm khoảng 3, 4 giờ sáng. Nếu lục đục pha trà hay loay hoay làm gì đó thì sợ phá giấc ngủ người khác nên tôi thường tìm đến những ngôi chùa gần nhất. Tôi thật vui vì hầu hết chùa ở Việt Nam thức giấc mở cửa rất sớm và có những thời công phu đều đặn hàng ngày lúc trời chưa sáng, nhất là ở miền Nam và miền Trung. Thật không ngờ người đi chùa, nhất là thế hệ cao tuổi, lại đến sinh hoạt với chùa đông đảo và thường xuyên như thế. So với thế hệ Chiến tranh Việt Nam bảy, tám, chín chục chúng tôi thường đi chùa Rằm, mồng Một hay sinh hoạt GĐPT và khuôn hội thì vào dịp cuối tuần; nhưng ở đây sinh hoạt hàng ngày với tinh thần “ngoan đạo” cao độ.
Trong sáu tuần lễ ở quê nhà đi từ Nam, lên Cao nguyên, ghé Trung và ra Bắc, tôi đã trực tiếp đến các chùa lễ Phật và vấn an quý Thầy, Sư Ni quen và lạ. Thật sự tôi hơi “lóa mắt” về hình ảnh các chùa viện đã biết và mới biết; đa đều được xây dựng, trùng tu hay chỉnh trang nếu không ở mức độ nguy nga, tráng lệ thì cũng công phu và mỹ thuật. Đời sống của chư Tăng Ni và nếp sinh hoạt của các chùa viện mà tôi được đến viếng đã khác xa thời cây đa, cổ tự của những năm xưa. Từ thể thức trà nước tiếp khách đến những bữa cơm chay tập thể hay đãi khách đều tươm tất và phong phú hơn nhiều so với nếp tu hành kham nhẫn “tương chao, rau muối” một thời. Tăng Ni chúng xuất gia, hầu hết bắt kịp đà tiến bộ của nhân loại chứ ít còn hiện tượng “xa lánh hồng trần” như một thời quá khứ. Hình ảnh công khai mà tôi thấy được là hầu hết tu sĩ các cấp đều có điện thoại cầm tay và phần đông có phương tiện giao thông và giao lưu riêng. Các bậc phương trượng, trụ trì, quản lý, hộ tự thì có mức sống cao hơn với phòng riêng có máy điều hòa không khí, điện thoại và xe ô tô tự lái hay đưa đón.
Có duyên may được tiếp xúc với quý Tăng - Ni, từ sa di… đuổi quạ đến trụ trì, phương trượng và hàng chức sắc Giáo Hội đương thời, tôi có được niềm vui là tâm nguyện tu học vươn lên của đa số chư vị. Nhờ mạng lưới truyền thông nhanh nhạy bao trùm khắp từ thành thị đến nông thôn nên các nguồn thông tin rất cập nhật. Khách hành hương từ phương xa trở về như tôi nếu không theo dõi tin tức thời sự, rất có thể trở thành lạc hậu về những chuyện đang xảy ra nóng bỏng trong cũng như ngoài nước so với tứ chúng ở chùa.
Càng được tiếp xúc nhiều với chùa chiền và tăng ni, nỗi xao xuyến trong tâm tôi càng tăng bởi khuynh hướng thực dụng trong các chùa viện ở quê nhà cũng không thua gì ở Âu Mỹ. Những hình thức cúng dường, gây quỹ… đầy hình thái và màu sắc đời thường trở thành khá phổ biến. Sự hiện diện và sức mạnh của vật chất, tiền bạc không còn là “ngoại đạo” như đa số chư vị tu sĩ có thẩm quyền hộ pháp và hoằng pháp mà tôi được gặp đều có kế hoạch xây dựng và phát triển tương lai chùa to tượng lớn với nguồn tài chính tỷ nầy tỷ nọ... Tôi không có lý do mà cũng chẳng có nhu cầu đi xa hơn trong vấn đề nầy. Tuy nhiên, qua thực tế trải nghiệm của mình trong 70 năm sinh hoạt với chùa ở Việt Nam cũng như ở Mỹ tôi không thể “hoan hỷ” giả vờ như không thấy rằng:
Hệ lụy tất nhiên của phương tiện vật chất và tiền bạc vào cửa thiền thường biến chốn thiền môn thanh tịnh thành cửa chùa xung động. Hàng tu sĩ giáo phẩm tiếp cận và hành hoạt với quyền lực thường bị “tục hóa” qua khuynh hướng đo lường tầm cao của công hạnh tu trì với thành quả xây dựng được cơ sở hình tướng chùa to tượng lớn!
Trong lúc đó, giới tu sĩ trẻ đương thời phần đông thông minh và nhạy bén trước mãnh lực cuốn hút của các phương tiện truyền thông như điện thoại, xe máy và các trang mạng xã hội thông dụng nhất ở Việt Nam là Facebook, TikTok, Zalo, Viber, Instagram, Quora… nhưng đây cũng chính là thách thức thời đại quyết liệt và gay gắt nhất giữa sức mạnh thực dụng thực tế và thế giới tâm linh giới hạnh tu hành.
Trong một thế giới cửa thiền đang ngày càng bị khuấy động trước cám dỗ thực dụng, một thực tế khiến tôi trăn trở là có khá đông chư Tăng Ni đạo cao, đức trọng, nghiêm trì giới luật, công hạnh vuông tròn, có viễn kiến chấn hưng Phật giáo trước những thử thách nghiêm trọng của thời đại đang dần rút vào im lặng. Số tứ chúng có bản tâm thanh tịnh tu hành hầu hết bó tay trước những hiện tượng thoái trào đang tiếp diễn bởi mức độ nhạy bén quá cao của bối cảnh tôn giáo, xã hội và quyền lực chính trị…
Có thể nói Đạo Phật Việt Nam (xin phân biệt với Giáo hội Phật Giáo Việt Nam) trong cũng như ngoài nước, vô hình chung, hiện nay có 3 phân phái (đúng hơn là 3 khuynh hướng):
1. Phái hàn lâm: Thiểu số quần chúng Phật tử gồm những học giả, trí thức, luận giả… xuất gia cũng như tại gia tương tác với nhau qua những lý thuyết và khái niệm cao siêu ở tầm “tàng kinh các”. Họ chia sẻ, trao đổi, viết lách toàn những điều trừu tượng về đạo Phật; đam mê sưu tầm, luận bàn, suy diễn, chẻ những cụm từ Hán Phạn làm tư ở mức độ “vô thượng, thậm thâm” quá nhiêu khê, trừu tượng mà quần chúng Phật tử trung bình và sơ cơ nếu được nghe và đọc thì như nghe và đọc tiếng nước ngoài.
2. Phái tứ chúng: Gồm Tăng, Ni, Phật tử nam, Phật tử nữ chiếm đại đa số quần chúng Phật tử tại các giáo hội, tự viện và tăng đoàn. Đây là khối nhân sự xương sống của mạng mạch Phật giáo xưa nay.
3. Phái cầu vọng: Gồm những Phật tử lâu năm hay mới theo có khuynh hướng hành hoạt với đạo Phật như một tín lý dân gian qua những hình thức cúng bái, cầu xin. Khuynh hướng tâm linh có khi đi xa hơn trong sinh hoạt lễ hội, trộn lẫn kinh kệ đạo Phật với nhạc lễ chầu văn; kết hợp Tam Bảo đạo Phật với Thánh Thần đạo Mẫu, đạo Thiên tiên Thánh giáo và đi xa hơn với những hình thức đốt vàng mã, bói toán, chiêu hồn…
Ba “phái” nầy không nhất thiết phải có sự sinh hoạt độc lập theo dòng mà thường khi vẫn có sự tương tác qua lại với nhau nhiều hay ít tùy trường hợp và mức độ.
Nôi dung bài viết này không nhằm mục đích ca ngợi hay phê phán một đối tượng tôn giáo, xã hội, chính trị nào cả mà chỉ mong được lý giải “hiện tượng Minh Tuệ” đang gây “bão mạng online - internet” ở quê nhà.”
Qua chặng đường ba, bốn chục năm trở lại, đạo Phật Việt Nam đã chuyển biến trước những thử thách của hoàn cảnh và phương tiện. Một đạo Phật thanh tịnh mái chùa rêu phong nấp bóng cây đa, thâm nghiêm giữ hồn dân tộc đã bị lay động bởi hình tướng phóng thể và phương tiện đời thường. Khi tâm động thì cảnh động và tất nhiên cuốn theo pháp chênh, người động. Các bậc xuất gia là linh hồn của đạo Phật. Linh hồn bị tục hóa thì tâm cũng bị vẩn đục theo là hệ lụy vừa trực tiếp vừa gián tiếp khó lòng tránh được. Nếu không có một sự chấn chỉnh đúng thời, đúng hạn thì tính thậm thâm vi diệu của pháp Phật sẽ từ tĩnh sang động, từ đạo vị sang trần thế, từ thánh sang phàm, từ siêu thoát sang nhuốm mùi tục lụy vì danh, vì lợi, vì ngã mạn, ngã sở… bụi trần!
Trường hợp Tu sĩ Minh Tuệ là một giọt nước tràn ly. Đại chúng không cần biết Ts MT là ai, tu theo hạnh nguyện nào, nghiêm cẩn với giới luật và hành đạo có tương hợp với nguyên lý và đạo lý Phật môn truyền thống hay không. Quần chúng không suy diễn, phân tích, lý luận quanh co mà rất đơn giản, cụ thể và đi thẳng vào vấn đề, rằng: Các bậc xuất gia hành đạo Tăng Ni là hình ảnh tiêu biểu trong ba ngôi Tam Bảo – Phật-Pháp-Tăng – tuân theo giới luật nhà Phật mà cơ bản nhất là nếp đời phạm hạnh, từ phàm tới thánh thì hà cớ gì lại phải mộng tưởng điên đảo với hình tướng giả ảo như dòng chảy tâm linh ngày càng thiếu nước, ngược dòng đến thế?!
Sự tương phản quá rõ nét giữa các tu sĩ Phật giáo có chùa to tượng lớn, đi đâu cũng có tiền hô hậu ủng, xe pháo sang trọng, ăn uống tinh tươm đầy bổ dưỡng, tiền bạc rủng rỉnh, cà sa gấm đoạn, thị giả và đệ tử đầy đàn, du lịch thường xuyên khắp thế giới. Trong lúc đó hạnh tu trong sáng của nhân vật Ts MT thì hoàn toàn ngược lại.
Cho dẫu đây chỉ là hiện tượng cá biệt xuất hiện đột ngột và nhất thời nhưng do bởi động cơ nào mà quần chúng khắp nước đủ mọi thành phần xã hội lại dậy lên luồng phản ứng mạnh mẽ (kể cả hai chiều thuận và nghịch) lên tới một mức độ sâu rộng khắp cả trong và ngoài nước như đang tiếp diễn.
Trường hợp tu sĩ Minh Tuệ cũng được xem là một hiện tượng. Hiện tượng thường xuất hiện ở các dạng chính là vật lý, tâm lý, đạo lý, tín lý và... kể cả vô lý! Hiện tượng Minh Tuệ có thể nằm ở dạng tâm lý và tín lý. hiện tượng con người cũng như hiện tượng thiên nhiên sấm sét. Trong một tia chớp khoảnh khắc nào đó gây sự náo loạn long trời lở đất, nhưng nhưng tác dụng còn lưu lại nhanh hay chậm, tức thời hay lâu dài còn tùy thuộc vào sức mạnh của tia chớp và đối tượng bị đánh trúng. Tia chớp Minh Tuệ đã đánh động tâm lý quần chúng nhìn về đạo Phật và nhánh thứ ba trong ba nhánh cơ bản nhất của tôn giáo này là Tăng Bảo. Quần chúng bắt gặp một hình ảnh đẹp tiêu biểu trong pháp tu của Phật giáo: buông xả mọi tham ái và hoàn toàn phủi sạch mọi bám chấp theo giới luật của Đầu Đà Thập tam Công hạnh.
Theo thông tin chính thức của Giáo hội PGVN trong nước cho biết là cả nước có 18.491 tự viện (chùa, tu viện, thiền viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường...), 54.773 Tăng Ni, Phật tử chiếm 60% dân số; so với Hải ngoại có khoảng 300 ngôi chùa Phật giáo (kể cả chùa tư nhân, chùa Hội, chùa Thầy) và 2.200 Tăng Ni Sư theo ước định 2021 (PGVNTN) thì tuy khác nhau về nhiều mặt tổ chức và sinh hoạt nhưng cùng có chung những vấn đề trước mắt. Đó là nhu cầu thời đại cần có một sự chấn chỉnh hay chấn hưng Phật giáo (như thời kỳ 1950) liên quan đến hàng giáo phẩm lãnh đạo, giới luật và phương tiện cũng như pháp khí hoằng pháp, hộ pháp và chấp pháp.
Ngưỡng nguyện Hồng ân Tam Bảo độ trì cho mạng mạch Đạo Phật Việt Nam vẫn luân lưu cùng Đạo pháp, Dân tộc và Thế giới. Hiện tượng nhất thời Tu sĩ Minh Tuệ như giọt nước tràn ly, tiếng khánh báo thức để hàng Phật Tử quan tâm rằng: Đạo Phật cần hiện đại hóa để bắt kịp bước đi thời đại, tịnh hóa thiền môn.
Tạm kết
Có một trang Facebook đăng hình “thân Phật chảy máu” với lưỡi dao sắc lẻm cắt ngang mình Phật máu chảy đỏ lòm với lời bình luận đại ý nhấn mạnh rằng: rồi đây manh áo Cái Bang và nồi cơm điện phế thải sẽ bị quăng đi và ném vào sọt rác. Tôi chưa rõ là thân Phật chảy máu vì các trưởng tử Như Lai buông lơi giới luật hay bởi kẻ tin Phật lạc loài đang bị thóa mạ hoặc đang bị đàn áp bởi dư luận và quyền lực? Thế nhưng, tôi rất tâm đắc với lời comment đầy tâm đạo và trách nhiệm bên dưới rằng:
“Thân Phật chảy máu theo dòng tưởng tượng lãng mạn của người con Phật hay hình tướng của Tu sĩ Minh Tuệ bị ném vào giỏ rác... điều đó chẳng hề gì. Điều quan trọng nhất là những vết son hay vết chàm đó là GIỌT NƯỚC TRÀN LY để đạo Phật Việt Nam có động cơ CHẤN CHỈNH hay CHẤN HƯNG kịp thời trước khi quá muộn.”
California, Mùa An Cư 2568 (2024)
Nguyên Thọ Trần Kiêm Đoàn Ph.D; MSW
Nguyên Thọ Trần Kiêm Đoàn Ph.D; MSW
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét