BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 5 tháng 12, 2024

VĨNH BIỆT TRẦN TRIẾT QUỲNH DAO – Trần Vấn Lệ



Không có gì ồn ã. 
Hàng cây mùa Đông trơ cành còn vài ba chiếc là chưa rơi run rẩy.
Một chiếc lá nhẹ nhàng rơi xuống. 
Nữ sĩ Quỳnh Dao chào vĩnh biệt mùa Đông Đài Loan.
 
Quỳnh Dao ra đời năm 1938.  Sinh 20-4-1938, Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Hoa Lục Địa, rời nước năm 1949 qua Đài Loan...
 
Mất, tự quyết định chiều ngày 4 tháng Chạp năm 2024, mùa Đông, tại nhà riêng, Quận Đạm Thủy, Thị Trấn Tân Bắc, Thủ Đô Đài Bắc, Nước Đài Loan Trung Hoa Hải Ngoại.
 
Bà đã có thư dặn dò con cháu để yên cho Bà đi từ năm 2018.
 
Và bà đi sau nhiều ngày chữa bệnh tại nhà riêng - một tòa lâu đài đầy đủ tiện nghi, trị giá trên mười triệu Đô La Mỹ... Bà là nhà văn giàu nhất thế giới xưa nay, tự do cũng nhất... mà oằn oại vì tình nghĩa trăm năm hơi nhiều.  Sức chịu đựng của bà coi như cũng khá!
 
Họ tên của bà giản đơn như nhánh cây cổ thụ:  Trần Triết.
Bút hiệu của bà dễ thương:  Quỳnh Dao, chắc tự ví như hoa hiếm, như lá ngọc, Quỳnh và Dao?
Hoa Quỳnh chỉ nở đúng nửa đêm.
Lá Ngọc dễ ai mà có.
 
Bà có rất đông độc giả ái mộ về văn,  đúng là văn chương;  có nhiều nước mắt của khán giả xem phim chuyển thể từ truyện của bà vì láng lai tình nghĩa thấp thoáng những con đường Mùa Thu Lá Bay...
 
Người Việt Nam trước 30-4-1975 ái mộ bà gần ngang với Kim Dung tác giả truyện chưởng. 
 
Người Việt Nam sau 30-4-1975 nhìn bà trong nhiều đám lửa, gạt nước mắt không khóc riêng cho một nhà văn.
 
Nhà Văn Quỳnh Dao đi rồi!
Tám mươi sáu năm ở đời.  Vậy thôi!
 
                                                                                     Trần Vấn Lệ

2 nhận xét:

Bâng Khuâng nói...

Một bài thơ mà tôi thuộc khi đọc tác phẩm “THỐ TY HOA” (Cánh hoa chùm gửi) của Quỳnh Dao, mà Liêu Quốc Nhĩ dịch thật hay:

“Chẳng phải là hoa, chẳng phải sương
Nửa khuya em đến, sáng em về
Đến như giấc mộng xuân không đợi
Đi tựa mây trời không định nơi”

Từ đó, tôi mới tìm hiểu thêm và biết đó là bài thơ HOA PHI HOA của Bạch Cư Dị, Quỳnh Dao đưa vào trong truyện THỐ TY HOA. Tôi thuộc luôn thơ Bạch Cư Dị, nhưng bây giờ nhớ nhớ quên không được trơn tru như hồi còn trẻ:

HOA PHI HOA
Hoa phi hoa
Vụ phi vụ
Dạ bán lai
Thiên minh khứ
Lai như xuân mộng kỷ đa thời
Khứ tự triêu vân vô mịch xứ
(Bạch Cư Dị)

花非花,
霧非霧。
夜半來,
天明去。
來如春夢幾多時,
去似朝雲無覓處。

Bâng Khuâng nói...

Câu thơ:

'Đi tựa mây trời không định nơi..."
(Liêu Quốc Nhĩ dịch)

Nguyên tác là
"Khứ tự triêu vân vô mịch xứ"

Nghĩa là:
"Đi tựa mây sớm không biết nơi nào tìm!"

*
Tìm đọc thơ Bạch Cư Dị, mới biết MÂY SỚM (TRIÊU VÂN 朝雲) là điển cố ghi trong lời tựa bài Cao Đường Phú của Tống Ngọc nói về Vu sơn thần nữ : "buổi SÁNG làm MÂY, buổi tối làm mưa"
*
“Vu sơn vân vũ 巫山雲雨" là một thành ngữ vốn chỉ việc làm mây làm mưa của thần nữ Vu sơn trong truyền thuyết, cũng như trong lời tựa bài Cao Đường phú. Về sau người ta mượn sự tích này để chỉ việc ăn nằm giữa đôi trai gái, và thường dùng hai từ “vân vũ 雲雨" tức “mây mưa” hay đôi khi dùng "Vu sơn 巫山" với nghĩa nam nữ hợp hoan.

Cho nên, câu thơ:
"Khứ tự triêu vân vô mịch xứ"

Có người dịch như sau:
"Khi đi thì như nữ thần Vu Sơn, chẳng biết đâu tìm."