BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2025

NỬA KIA – Thơ Lê Kim Thượng


   

1.
Nhớ ngày thưở ấy… “Ngày xưa…”
Chung trường, chung lớp… tuổi vừa biết yêu
Thương ngày nắng sớm, mưa chiều
Ngày thơ, ngày mộng, dáng Kiều lung linh
Trao nhau những nụ hôn tình
Nắng soi mặt nước in hình đôi ta
Tình yêu chắp cánh bay xa
Vòng tay ôm ấp, ngày qua, ngày ngày
Người yêu như thể người say
Men tình chuếnh choáng, ngất ngây miệt mài
Yêu người mới biết nhớ hoài
Yêu người mới biết ngày dài quạnh hiu
Trong vòng tay ấm hương yêu
Lời tình thủ thỉ, cho nhiều thiết tha
Hoàng hôn tắt nắng đường xa
Bước về không nỡ… ơi ta… ơi mình…

TIẾNG QUÊ VỌNG GỌI – Thơ Tịnh Bình


   

Biết tìm đâu vệt mây chiều cố xứ
Mắt hoàng hôn ầng ậng nước nhớ nhà
Ta xa lạ giữa bốn bề vội vã
Chợt thèm quê
Cỏ dại
Một lối về...
 
Nghe sông gọi lời phù sa ngọt lịm
Nước về đâu trăm sóng nhỏ lạc dòng
Đớp bóng mình cá lầm mê nguồn cội
Vỡ bóng rằm trăng òa khóc mặt sông
 
Thương bóng núi trầm mặc cùng lau lách
Những đàn bò mê mải gặm hoàng hôn
Nhòa dáng khói cánh đồng như thiếp ngủ
Tiếng mục đồng bảng lảng vọng chiều hôm
 
Nhói lòng không cỏ may ghim chân bước
Quê mình ơi man mác điệu ru hời
 
Bay về đâu cánh chim trời nặng nợ
Lả giọng mây chiều... Tiếng quê gọi mòn hơi...
 
                                                        Tịnh Bình

Thứ Hai, 10 tháng 11, 2025

TÔI ĐỌC “CHỮ NGHĨA VĂN CHƯƠNG” CỦA LA THỤY- Nguyễn Văn Trị



Mình nhận được tác phẩm "Chữ Nghĩa Văn Chương" của nhà văn La Thụy (Đoàn Minh Phú) gửi tặng qua đường bưu điện, cùng lời nhờ chuyển tặng đến một vài thầy cô và bạn đồng môn.
Trước hết xin cám ơn tình cảm bạn dành cho mình và cũng có vài cảm nhận sau khi đọc (dù tuần lễ này khá bận rộn).
 
Về tác giả La Thụy
 
La Thụy là bút danh của Đoàn Minh Phú, cựu học sinh trường TH Nguyễn Hoàng Quảng Trị niên khoá 1968 -75, giáo viên về hưu tại La Gi, Bình Thuận (cũ).
Ngoài công việc giảng dạy, anh dành trọn đam mê cho văn chương, thể hiện qua vai trò thành viên Hội Văn học Nghệ thuật Bình Thuận và là đồng quản trị trang blog Văn Nghệ Quảng Trị (cùng anh Nguyễn Khắc Phước, cựu học sinh Nguyễn Hoàng khóa 64-71). Trang blog này là nơi giới thiệu những cây bút có gốc gác quê hương Quảng Trị và các tỉnh miền Trung, kho lưu trữ bài viết được chọn lọc từ năm 2008 đến nay.
 

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2025

CẢNH NỨT RẠN TRONG NHÀ TÂY SƠN THỰC SỰ NHƯ THẾ NÀO ? - Quách Tấn/Quách Giao



“Tập Nhà Tây Sơn” này, tôi viết theo những tài liệu của cha tôi là Quách Tấn đã sưu tầm, tập hợp và ghi chép lại.
Trước khi viết, trong khi viết và sau khi viết xong, tôi đã được cha tôi hướng dẫn và uốn nắn sửa chữa những chỗ chưa phản ánh đúng, đầy đủ sự việc và tinh thần.Gia tộc tôi sinh cư lâu đời tại xứ Tây Sơn.
 
Từ nhỏ chúng tôi đã được nghe cha tôi và các thân sĩ kỳ cựu trong vùng trao đổi với nhau những chuyện về Tây Sơn. Và trong gia đình, cha tôi cũng thường kể cho con cháu nghe những chiến công oanh liệt của nhà Tây Sơn, gây lòng tự hào, kính phục.
 
Thời trung học, tôi cũng đã học sử Tây Sơn, cũng đã đọc nhiều sách về Tây Sơn. Nhưng tài liệu thì nghèo nàn và sự việc có nhiều điểm không giống những điều tôi đã được nghe truyền. Cha tôi đã nhiều lần giải thích sự sai biệt ấy, cho biết rằng:
 
A. Do ngòi bút kẻ viết sử thời ấy xuyên tạc, giấu bớt sự thật cho vừa lòng nhà Nguyễn Gia Miêu đang thống trị.
Do các sử gia thời ấy ở xa (miền Bắc nên không sát).
Do sự đàn áp của chính quyền rất khốc liệt, nhân dân địa phương có liên quan trực tiếp với Tây Sơn ngậm miệng không dám nói lại rõ sự thật.
 
B. Mà sự thật về Tây Sơn từ khi nhen nhóm cuộc đại nghĩa đến lúc bại vong rất phong phú, nhiều gia phả còn ghi, nhiều cháu con các danh tướng, danh thần còn nhớ biết và truyền lại. Các sách ghi chép của các nhà Nho yêu nước sống gần thời ấy về sau có ghi chép lại.
 
Cha tôi đã có ý muốn viết lại lịch sử Tây Sơn cho đủ hơn, đúng hơn, để lưu lại những điều hay, đẹp, cao cả của ông cha cho con cháu về sau biết mà tự hào, tự cường. Vì vậy, từ năm 1930 đến 1945, suốt 15 năm, cha tôi đã sưu tập, ghi lại, tiếp xúc và đi đến cả một số nơi xảy ra các sự kiện lịch sử ấy để quan sát để thông cảm với cổ nhân.

DUYÊN GIĂNG GIĂNG MƯA – Thơ Trần Vấn Lệ


     

Bão tận Ca ri bê... nên Cali cứ nắng!
Mới hơn bảy giờ sáng, nắng bừng lên chào ngày!
Và đàn chim sẻ bay.  Hai con mèo ngồi ngó...
Những hạt gạo còn đó... mái nhà kia, còn sương!
 
Một ngày mới dễ thương nhưng bắt đầu thấy ghét!
Hai con mèo chết tiệt cứ rình chim, là sao?
Tôi đuổi mèo đi mau, chúng về lại nhà chúng...
Chim đâu biết, cảm động: lòng tôi yêu quý chim?
 
Tôi lục ca dao tìm có câu nào thật đẹp
để nói cho em biết lòng tôi thương nhớ em!
"Tìm em như thể tìm chim,
chim ăn biển Bắc, anh tìm biển Nam!".
 
*
Cơn bão không đi ngang.  Santa Monica biển lặng
Tàu Long Beach đi thẳng, nó lên San Francisco?
Nước rẽ trăm đường thơ, hồn tôi tan, ngơ ngác...
Biển một thời tôi lạc, em lạc biển trời nao...
 
Nhớ quá, Ngoại, vườn cau có em theo lúp xúp...
Cũng nhớ chớ, giàn mướp hoa vàng, dây hay duyên?
Không mà!  Anh nhớ em... Nghĩ lúc trời biển động,
Sóng lòng tan theo sóng, duyên lòng giăng giăng mưa...
 
Chao ôi Một Bài Thơ
     Sáng Nay Tôi Làm Nháp!
          Em, chim ăn biển Bắc
               Tôi, đi tìm biển Nam!
 
                                                                   Trần Vấn Lệ

“LẬT SỬ”, MỘT CÁCH GỌI KHÔNG ĐÚNG - Mai Quốc Ấn



Tôi chỉ bắt đầu tìm hiểu về vua Gia Long Nguyễn Ánh từ năm 26 tuổi. Trước đó, vị đại anh hùng trong tôi là vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Và trước 26 tuổi, nhận thức của tôi đa số là từ sách vở “chính thống”.
Nói thẳng là “bị nhồi” kèm “tự nhồi” vì tôi rất mê đọc sách.
Nhưng hiện nay, những kẻ nào nói rằng những người đang đưa ra các vấn đề lịch sử với những tư liệu đa dạng, phương pháp luận khoa học là đang “lật sử” thì thật bậy bạ.

NGUYỄN PHÚC QUÂN, HOÀNG TỬ THỨ MƯỜI CỦA VUA GIA LONG, NGƯỜI QUẬY TUNG KINH THÀNH HUẾ - Lê Quang Thanh Tâm



Trong những người con vua Gia Long sinh ra giữa thời thái bình, không vướng gió bụi chiến chinh, thì nổi bật một vị hoàng tử ngông nghênh, ăn chơi "tới nóc", quậy tung trời đất, làm náo động chốn kinh kỳ, ấy chính là Nguyễn Phúc Quân, tức Quảng Uy Công, con trai thứ mười của Hoàng đế.

NGƯỜI NAM KỲ - Lâm Văn Bé

Giữa năm 1834, vua Minh Mạng đã chính thức đặt danh xưng Bắc kỳ và Nam kỳ thay cho cách gọi cũ là Bắc thành và Gia Định thành đã giải thể trước đó mấy năm..
 

Người dân miền Thuận Quảng, sau gần 400 năm tiếp cận với nền văn hóa bản địa Phù Nam – Chân Lạp, với người Minh Hương, người Pháp, tác động bởi một môi trường thiên nhiên khắc nghiệt thuở ban đầu nhưng trù phú về sau đã tạo cho họ những nét đặc thù mà từ ngôn ngữ đến tâm tình lẫn tâm tính có nhiều khác biệt với tổ tiên của họ ở đàng ngoài.
 

KHAI CĂN 開根 – Ung Chu, Hán-Việt Thông Dụng, Thuật ngữ Toán học



EXTRACT - KHAI CĂN
EXTRACTION - PHÉP KHAI CĂN

Phép khai căn là phép toán ngược lại với phép nâng lên luỹ thừa, hành động thực hiện phép khai căn để tìm căn gọi là "khai căn" 開根.
- khai : mở, xẻ, phân tách, phân li, như trong "li khai", "khai trừ", "extract" tiếng Anh nghĩa là phân tách, chiết xuất, trích li

- căn : gốc rễ, thuật ngữ toán học này trong các ngôn ngữ đều xuất phát từ nghĩa đen là gốc rễ, như "root" tiếng Anh, "racine" tiếng Pháp, "Wurzel" tiếng Đức... "Radical" tiếng Anh có gốc Latin "radix" nghĩa là gốc rễ. Tiếng Nhật đọc là "kon" こん, tiếng Hàn đọc là "geun" .

"Khai căn" 開根 là từ ta mượn tiếng Trung Quốc (giản thể: 开根). Khai căn bậc hai (ngược với bình phương) được gọi là "khai phương" 開方 (giản thể: 开方). Tiếng Trung Quốc gọi căn bậc hai (tiếng Anh: squareroot) là "bình phương căn" 平方根. "Bình phương" 平方 nghĩa đen là hình vuông phẳng, cũng như "square" tiếng Anh, diện tích hình vuông là bình phương độ dài cạnh.
                                                                                  
                                                                                  Ung Chu
                                                                        Hán-Việt Thông Dụng
                                                                       #Thuật_ngữ_Toán_học

Thứ Năm, 6 tháng 11, 2025

MẤY NGÀY ĐẦU MÙA THU – Thơ Trần Vấn Lệ


   
 
Lạnh và khô.  Khó chịu!
Mới vào Thu, mới nhuốm màu Thu!
Vàng chưa đủ để nhuộm vàng phố xá
Xe bus vàng vẫn chạy dọc đường quen...
 
Không thấy anh và em
cầm tay nhau thong dong hứng lạnh.
Hình như ai cũng xếp đặt sẵn sàng
làm thêm giờ khi mùa Đông sắp tới.
 
Vài tháng nữa, cuối năm rất lạnh!
Sau Giáng Sinh, trời mới mở Thiên Đàng!
Thành Phố Buồn, người ta hát vang
Chúa hiện hữu trong trang Kinh bỏ túi!
 
Chỗ bình an nằm ngoài trái đất
Chỗ chia tay vẫn vậy, ở và về...
Người đi bộ đôi khi dừng cài bâu áo
Có khi dừng lâu nhìn tuyết bay qua...
 
Lạnh đầu Thu coi như chưa lạnh,
trời dành cho ba bốn bữa lo toan,
Những con thỏ tha cà rốt vào hang cất giấu
người thì tha lời cầu nguyện lên giường...
*
Người sẽ trách "Trời sao lạnh quá?"
Tuyết hồn nhiên nở tám cánh cười...
Hoa tuyết trắng nhuộm trắng trời xanh biếc
Mũ dạ đen che kín được buồn không?
 
                                               Trần Vấn Lệ

LỤT MIỀN TRUNG – Thơ Lê Phước Sinh


 

Thụt lên Thụt xuống
chưa đã mà sao ?!
lấp ló Sân trước
lại tràn Nhà sau...
 
Chơi chi mà bẩn
làm điên cái đầu
vừa dọn vừa bỏ
chưa đâu vào đâu...
 
Trên Nguồn ục xuống
như kiểu Băng trôi
thật chán ông Trời
hôm Lờ mai... Lút !
 
     Lê Phước Sinh

THỦ PHẠM CỦA LŨ LỤT LÀ AI? – Thái Hạo



Thủ phạm của lũ lụt về cơ bản là do mưa, điều ấy không cần bàn cãi. Nhưng điều tôi rất băn khoăn là các hồ (thủy điện) đã tham gia như thế nào vào tính chất của những trận lũ ấy, như tốc độ nước lên, đỉnh lũ, thời gian kéo dài của đỉnh…

Ví dụ như đối với Huế trong đợt lũ này, tôi hình dung rằng, hồ chứa như một cái bồn trung gian, hứng lấy và đựng nước mưa từ lưu vực đổ về. Sẽ có 2 trường hợp:

TẠI CÁI “VĂN HÓA TÌNH DỤC” Ở XỨ TA! - Mạc Văn Trang

 
Ảnh "Hít đất" là trò chơi team building phản cảm được nhiều người tham gia (trên báo Thanh Niên, đường link trong bài)

Gần đây có mấy vụ quan chức Việt Nam bị nước ngoài lên án  “quấy rối tình dục” phụ nữ nước sở tại. Phải nói rằng, những hành vi “quấy rối” như vậy ở xứ ta thì “nhẹ hều”, nhiều “quan” có thói quen như vậy rồi. Nhưng gặp nền văn hoá khác thì lớn chuyện.
Vậy mà báo chí quốc doanh chả lên tiếng bênh vực các “sếp” gì cả.
 
Mình đành lên tiếng vậy.
1. Ba vụ ồn ào gần đây nhất
Vụ thứ nhất, hai nhân viên an ninh sang Newzealand chuẩn bị cho chuyến thăm của Thủ tướng, bị cáo buộc “tấn công tình dục” hai cô gái ở nhà hàng:
“Vào ngày 4 tháng 3 năm 2024, vài ngày trước chuyến thăm chính thức của Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính đến thăm New Zealand, hai quan chức được cho là thuộc Bộ Công an Việt Nam đã bị cáo buộc tấn công tình dục các nhân viên trong một nhà hàng Việt Nam ở thủ đô Wellington của New Zealand.”
Vụ này được ghi vào Wikipedia mới kinh chứ.
(https://vi.wikipedia.org/.../C%C3%A1o_bu%E1%BB%99c_2_quan...).

ĐẠI HỒNG THỦY 大洪水 – Ung Chu



- đại : to, lớn
- hồng : lũ, lụt (nước lớn gây ngập), chuyển nghĩa thành tính từ nghĩa là to lớn, dùng thông với chữ "hồng"
- thuỷ : nước.

Lụt cũng được gọi là "hồng thuỷ" 洪水 / 鴻水 nghĩa đen là nước lớn. "Đại hồng thuỷ" 大洪水 nghĩa là lũ lụt lớn. Tiếng Nhật đọc là "dai-kō-zui" だいこうずい, tiếng Hàn đọc là "dae-hong-su" 대홍수.

Nhiều cộng đồng trên thế giới cùng có truyền thuyết về đại hồng thuỷ, kể về trận lụt cực lớn trong quá khứ xa xôi nhấn chìm khắp nơi. Dạng thảm hoạ trong truyền thuyết này của các cộng đồng lớn trên thế giới (vùng Lưỡng Hà, vùng Ấn Độ, vùng Trung Hoa, vùng Do Thái...) thường gắn với những đấng siêu nhiên.
                                                                                             Ung Chu

LÊ NGỌC BÌNH, NGƯỜI ĐÀN BÀ KHIẾN MỘT VỊ VUA OAI DŨNG MỀM LÒNG - Lê Quang Thanh Tâm



Số đâu có số lạ lùng,
Con vua lại lấy hai chồng làm vua!
 
Người ta thường nói vua Gia Long cứng như sắt, bén như dao. Mà thật, giữa cả giang sơn ấy, có lẽ chỉ một người đàn bà làm sắt hóa mềm, đó là Lê Ngọc Bình.
 
Cô gái Bắc Hà, con vua Lê Hiển Tông, sinh ra giữa tiếng trống triều tàn. Mười một tuổi, cái tuổi người ta còn ôm con búp bê vải, thì chị gái, Ngọc Hân công chúa, đã đành lòng ép gả em cho Quang Toản, con riêng của chồng mình. Tất cả chỉ để giữ chỗ quyền uy trong hậu cung Tây Sơn, vốn luôn đầy rẫy đấu đá của ba bà chánh thất. Và cũng là để em gái út được mang chút oai danh.
 

Thứ Tư, 5 tháng 11, 2025

KỂ LẠI MỘT GIẤC MƠ CŨ – Đặng Xuân Xuyến



Đêm 7 tháng 8 năm 2013, vừa đặt mình nằm đã mơ mơ màng màng, thấy lạc vào giữa đám đông, tiếng cười nói xôn xao và những ánh mắt nhìn nhau đầy ẩn ý. Tâm trạng tôi cũng rất lạ, nửa nôn nao muốn nán lại để hòa vào cái không khí náo nhiệt ấy như nỗi niềm của kẻ lâu ngày chợt tìm thấy chốn muốn thuộc về, nửa thì lại muốn rời đi thật nhanh để tránh xa những thị phi, những lời đàm tiếu có thể chờ sẵn sau mỗi tiếng nói, nụ cười từ đám đông kia.
 

HỌC GIẢ TRẦN TRỌNG KIM, NGƯỜI YÊU NƯỚC THÀNH TÂM - Nhã Nam



Trần Trọng Kim được đánh giá là một trong những học giả uyên thâm nhất cả về tân học lẫn cựu học, là người tận tụy và có nhiều đóng góp to lớn cho ngành giáo dục và nền văn hóa Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 20. Ông là người tiên phong cho một số công trình biên khảo có giá trị lâu dài thuộc nhiều lĩnh vực học thuật khác nhau.
Theo soạn giả Trần Văn Chánh, “Trần Trọng Kim là một người yêu nước thành tâm, một nhà sử học chân chính, trung thực, một người cầm bút có nhân cách, một học giả xuất sắc…”

Thứ Ba, 4 tháng 11, 2025

CA SĨ THANH LAN TỪNG BỊ LỪA ĐÓNG PHIM “NUDE” ?



                                          

Sự việc có một thời gian phổ biến, và ca sĩ Thanh Lan nhiều năm mang tai tiếng. Nhưng mới đây mọi việc trở nên sáng tỏ:

Sau gần 40 năm quay (1973), phim “TÌNH KHÚC THỨ 10” tức là phim “NUMBER10 BLUES” (GOODBYE SAIGON) được trình chiếu năm 2013.
Nữ ca sĩ, tài tử Thanh Lan và phim “Number 10 Blues” nhận giải thưởng Audience Award 2013 tại liên hoan phim tổ chức tại Nhật. Nữ ca sĩ Thanh Lan rất vinh dự khi được Ban Tổ Chức của Liên Hoan Phim Festival Okuradashi 2013 mời đến Nhật tham dự và cô lại càng hạnh phúc vô ngần khi trong Đại Hội Điện Ảnh kỳ này, cuốn phim “Number 10 Blues” do Thanh Lan đóng vai chánh đã bất ngờ được chọn là cuốn phim được khán giả yêu thích nhất.


                       
                                                                     Ca sĩ Thanh Lan

Sau khi tạo dấu ấn qua một loạt phim Tiếng hát học trò (1970), Lệ đá, Yêu (1971), Ngọc lan, Trên đỉnh mùa đông, Gánh hàng hoa (1972), Xóm tôi, Xin đừng bỏ em, Mộng thường (1973), Trường tôi (1974), tháng 2.1975, nữ ca sĩ Thanh Lan nhận lời đóng vai chính trong bộ phim tình cảm Tình khúc thứ mười của đạo diễn Lưu Bạch Đàn. Đây là phim hợp tác giữa Trùng Dương Films và Hãng truyền hình NHK (Nhật Bản).
 
Ca sĩ Thanh Lan thời nổi tiếng với tình khúc "Khi xưa ta bé"
 
Thanh Lan không nhận được kịch bản phim mà chỉ nghe nói các cảnh quay sẽ được thực hiện tại Sài Gòn, Nha Trang và Đà Lạt.
 
Tờ mờ sáng một ngày đầu tháng 3.1975, cô ca sĩ nổi tiếng với tình khúc Khi xưa ta bé nhận được cuộc gọi với giọng Việt lơ lớ, xưng là ê-kíp đoàn làm phim Tình khúc thứ mười, hẹn cô đến “casting” tại ngôi biệt thự cổ trên đường Tú Xương (Q.3).

NHỮNG NỤ HOA HỒNG VÀNG VÌ EM E ẤP NỞ - Trần Vấn Lệ



Mùa Thu... như hàng năm:  một tuần là dài lắm / làm cho ngày bớt nắng, làm cho đêm dài thêm...
 
... làm cho anh nhớ em / khi mùa Đông đang tới, chắc chắn em đang nói:  "Mình diện áo ngự hàn!".
 
Rồi chúng ta lang thang / đi trên đường tuyết trắng.  Nhiều con đường rất vắng / đến Giáo Đường rất thưa...
 
Tuyết bay.  Không phải mưa... Không phải sương... em nhỉ... mà là hoa tứ quý / nở chào mùa cuối năm!
 
Những nụ hoa hồng vàng / vì em e ấp nở... cũng vì anh có hứa / hoa đào phai rồi mà...
 
Anh nhớ... hồi xưa, xa... Lan Đình -  thơ thật ngộ:  "Hoa đào phai về mùa Xuân quá khứ, đền cho em màu rực rỡ hoa vàng!". (*)
 
Mùa Thu có lá vàng.  Mùa Đông có hoa vàng!  Tôi yêu nàng tha thiết!  Đừng cười anh, nói thiệt:  "Còn Ai Trên Thế Gian?
 
*
Còn em thôi!  Giai Nhân... Nụ hoa vàng trong tuyết!  Con nai vàng ngơ ngác, kệ nó mà, nha em? (**)
 
Chúng mình hãy nhỏ thêm / từng ngày về Cố Quận... Em sẽ là Cô Thắm, anh là khách Tao Nhân...
 
Chúng mình dạo đường Xuân - đường Xuân không có tuổi!  Chuông Giáo Đường chết đuối... mình khép cửa con sông!
 
Minh ôm tiếng boong boong / mình thổi bừng bếp lửa... Ôi tiếng reo nho nhỏ / khói lam mờ chân mây! 
                                                                                Trần Vấn Lệ
(*) Thơ Lan Đình
(**) Thơ Lưu Trọng Lư

CHUYỆN TRÒ VỚI NHẤT, NGÀY SỬA NHÀ – Đặng Xuân Xuyến



Sửa nhà giúp tôi, Trương Duy Nhất suốt ngày than vãn: "Sửa nhà cho anh mệt quá. Hàng xóm của anh sao toàn bọn chó thế? Dưới Nguyễn Văn Trỗi gặp vợ chồng con chó T, trên Đường Láng lại gặp con chó H. Sao số anh nhọ thế?". Tôi nghe, chỉ cười nhạt: - Chắc kiếp trước anh nợ họ nên kiếp này họ đòi nợ anh.
 

TRẦM HƯƠNG – Thơ Lê Kim Thượng


 
 
Trầm Hương
 
1.
Đò ngang chở nắng sông dài
Bến quê vẫn đợi, vẫn hoài yêu thương
Chở người trở lại quê hương
Chuyến đò thưở nhỏ đưa đường khách xa
Nhớ sân đình, nhớ bóng đa
Làng quê, xóm cũ, hiền hòa mái tranh
Dòng sông ôm ấp đồng xanh
Phù sa nuôi lúa ngọt lành thân thương
Nhớ hoa xoan tím ven đường
Lao xao trong gió, mùi hương đậm đà
Nhớ trưa bóng nắng nhạt nhòa
Tiếng ve vang động, vỡ òa cuối thu
Chao nghiêng cánh võng, lời ru
“Bướm vàng đậu đọt mù u…” chòng chành
Ru con giấc ngủ ngon lành
Cái tôm, cái tép…  hóa thành lời ca…   

LỤT – Thơ Lê Phước Sinh


   

Ông Trời khóc ngày đêm đến húp cả mắt
Âm u làm bục Nước Bạc tràn về
Cái Gió vùng vằng rít lạnh từng cơn
Thủy Tinh kéo quân phá tanh bành xóm trên làng dưới...
 
                                                              Lê Phước Sinh

NGỌN LỬA VÀ ÁNH TRĂNG: DI SẢN TINH THẦN THÍCH TUỆ SỸ GIỮA KHỔ ĐAU VÀ GIẢI THOÁT – Trần Kiêm Đoàn



“Đường xưa vẫn gió, trăng chưa từng tắt,
Người đi rồi, mà nắng vẫn trong veo.”
                                                      Tuệ Sỹ
 
Tháng 11 - 2025, đại tường Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ. Lễ đại tường là ngày giỗ năm thứ hai hai sau khi một người qua đời. Đại tường không chỉ là một nghi thức tang lễ nối dài mà là một triết luận sinh diệt siêu vượt những tín lý từng được cho là siêu việt của văn hóa và tôn giáo Á Đông, đặc biệt trong Phật giáo; nhất là khi nói đến một bậc danh tăng như Thầy Tuệ Sỹ lại càng mang nhiều ý nghĩa:
 

VỤ ÁN CẢ LÀNG LẬP HƯƠNG ƯỚC GIẾT NGƯỜI ĐỂ CƯỚP CỦA KHÁCH QUA LÀNG TRONG HƠN 20 NĂM GIẾT 318 NGƯỜI - Nguyễn Xuân Diện giới thiệu


Ảnh: Con đường thiên lý Bắc - Nam. Đèo Ba Dội, nơi giáp ranh hai tỉnh Ninh Bình - Thanh Hoá. Đoạn đường dẫn đến Đa Giá Thượng (nơi xảy ra vụ huyết án) và Kẽm Trống.

Tổng số bị giết hại: 318 người, trong hơn 20 năm. Tổng số kẻ giết người: 290 tên, trong đó có 52 tên đầu sỏ.
 
Giáo sư Nguyễn Tá Nhí đã tìm được tài liệu cổ về vụ việc này và  phiên âm dịch nghĩa, giới thiệu bài văn tế này:
 
Về sự kiện bọn hung đồ giết hại dân lành ở xã Đa Giá Thượng huyện Gia Viễn phủ Trường Yên, các bộ chính sử như Đại Việt sử ký tục biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Việt sử cương mục tiết yếu v.v... đều ghi chép tương đối giống nhau. Chẳng hạn sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn chép:

“Tháng 5 mùa hạ (năm Chính Hòa 15-1694) bắt giết 52 người dân hung ác ở xã Đa Giá Thượng.
Xã Đa Giá Thượng đường núi nhỏ hẹp hiểm trở, lại có nhiều hang hốc. Dân xã ấy đặt riêng khoán ước với nhau, dựng điếm canh đón người qua lại hoặc ngủ trọ tại xã, đến đêm bắt giết đi quăng xác xuống vực rồi cướp lấy của cải. Việc này kéo dài hơn 20 năm, xương trắng chất thành đống.
Đến nay việc bị phát giác, triều đình sai Thạc Quận công Lê Hải đem quân đi khám xét, bắt được đảng ác gồm 290 tên, đem chém 52 tên đầu xỏ hung ác bêu đầu ở chợ. Những tên còn lại bắt chặt ngón tay rồi đưa đi đày ở châu xa, xóa bỏ tên làng của xã này”.
Sự việc xảy ra từ những năm đầu thập kỷ bảy mươi của thế kỷ XVII, kéo dài suốt 20 năm. Triều đình cử quan quân đi đánh dẹp, mãi đến năm 1694 Thạc Quận công Lê Hải mới dẹp yên được. Các tư liệu lịch sử chỉ cho biết số lượng bọn gian ác bị bắt là 290 tên, còn về số người bị nạn là bao nhiêu thì không thấy đề cập tới. 

Ảnh: Con đường thiên lý Bắc - Nam. Đèo Ba Dội, nơi giáp ranh hai tỉnh Ninh Bình - Thanh Hoá. Đoạn đường dẫn đến Đa Giá Thượng (nơi xảy ra vụ huyết án) và Kẽm Trống.

Thứ Tư, 29 tháng 10, 2025

VUA MINH MẠNG VÀ CHIẾN DỊCH CẤM CHỊ EM "MẶC VÁY" - Sử Tếu



Vào thời kỳ chia cắt giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài, giữa miền Nam và miền Bắc, trang phục nước ta vì vậy cũng có sự khác biệt giữa hai miền.
 
Theo Lê triều chiếu lệnh thiện chính, vào năm 1665 ở xứ Đàng Ngoài, vì lý do “nghiêm chỉnh phong tục”, triều đình chúa Trịnh Tạc có ra một sắc lệnh cấm phụ nữ miền Bắc mặc quần:

“Áo quần đã có phép thường, áo đàn ông thì có thắt lưng và quần có ống chân (Quần), áo đàn bà thì không có thắt lưng và quần không có ống (Váy)… Từ nay về sau, áo quần đàn bà không được có thắt lưng và cấm mặc quần có ống, để nghiêm chỉnh phong tục… Nếu bắt quả tang (ăn mặc trái lệnh) sẽ phạt phạm nhân năm quan tiền sung vào công khố…”
 
Dần dần từ đó, phụ nữ miền Bắc chỉ mặc độc áo thắt vạt và mặc váy.