Quân sinh ngày mồng bảy tháng tư (âm lịch) năm Kỷ Tỵ (1809). Năm Gia Long thứ mười sáu (1817), mới chín tuổi, Quân đã được phong Quảng Uy Công. Mẹ mất sớm năm 1810, sau khi sinh em trai là Cự, Quân được Hoàng hậu Tống Thị Lan đem về nuôi dưỡng, xem như con ruột. Vì vậy, từ thuở nhỏ, Quân được thương yêu hết mực, nên tánh tình hơi ngổ ngáo, hiếu động.
“Điển đã làm bề tôi biết chết vì tiết nghĩa, ta là vợ há đổi lòng sao? Khi nào lấy lại được kinh thành cũ, ta lập tức xuất gia thờ Phật mà thôi.”
“Mày chớ có khinh ta!”
Biết trò giễu cợt thầy, ông Giới xin vua không dạy Quân nữa.
Đến những năm đầu Minh Mạng, vua lại cho Trần Đại Nghĩa làm giáo đạo, còn cử Nguyễn Đăng Sĩ làm giảng quan trong phủ riêng Quân, đồng thời ban cho một cây roi, dạy:
“Lũ chúng mày không biết người Đàng Ngoài tức là ông cha người Đàng Trong à?”
Quân còn sai đầy tớ làm ghế ngồi, gối dựa khiến người đó liệt không đứng dậy được.
Quân quậy tung trời, lôi cả em út Nguyễn Phúc Cự vào vạ. Bà Ngọc Tú cưng Cự như trứng, hay mắng Quân, nhưng Quân chỉ cười hề hề.
Khi bà Ngọc Tú bệnh nặng, vua Minh Mạng thường đến thăm. Bà khóc mà nói:
“Cha mẹ mất cả, thân mồ côi, không ai dạy dỗ, không còn gì vui, cho nên phải như vậy thôi.”
Vua giận nhưng nghĩ lại cũng có lý, chỉ cười rồi thôi.
“Em chỉ muốn chóng khỏi bệnh để còn phá gia sản thôi.”
Vua Minh Mạng bật cười.
Quân có hơn 30 vợ và nàng hầu, ăn chơi ngút trời, nhưng không có con nối dõi. Gia sản giao cho em là Thường Tín Quận vương Nguyễn Phúc Cự.
Năm Minh Mạng thứ 5 (1824), tháng giêng, công chúa Ngọc Ngôn lấy chồng là Kiêu kỵ Đô úy Lê Văn Yên (hoặc Yến), con trai cả của Đô thống chế Tả dinh quân Lê Văn Phong, được lấy làm thừa tự cho người bác là Lê Văn Duyệt. Hai người có với nhau ba con trai.
Năm Minh Mạng thứ 6 (1825), tháng 10 âm lịch, công chúa Ngọc Khuê lấy chồng là Vệ úy Nguyễn Văn Thiện, con trai thứ hai của Kinh Môn Quận công Nguyễn Văn Nhơn. Hai người có một con trai tên là Uyển. Uyển được nhận tiền gạo chu cấp và tập ấm hàm Cẩm y vệ Hiệu úy.
Thường Tín Quận vương Cự có tất cả bảy con trai và mười một con gái. Công tử trưởng là Thường Nhâm, công tử thứ hai là Thường Dung, công tử thứ ba là Thường Đổng - năm Tự Đức thứ 8 (1858) được phong Vĩnh Ân Đình hầu. Công tử thứ năm là Thường Lâu, cùng năm Tự Đức thứ 8 được ân phong Trợ quốc khanh.
Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), vua cho đúc các con thú bằng vàng để ban thưởng cho các hoàng thân, trưởng công chúa và con cháu đã mất, giao cho người thừa tự hoặc người giám thủ để thờ. Quân được ban một con kỳ lân bằng vàng, nặng ba lạng bảy đồng cân.
Lê Quang Thanh Tâm
Trích từ Hùng Ca Sử Việt

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét