BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 30 tháng 9, 2025

TRẬN RƯỢU NHỚ ĐỜI! – Đặng Xuân Xuyến

                                (Viết tặng Nguyễn Toàn Thắng)
 
Ảnh: Đặng Xuân Xuyến (bìa phải) và Nguyễn Toàn Thắng (bìa trái)

Một bận, không biết “cú” chuyện gì, Thắng xuống nhà “gạ” lão lên Triệu Việt Vương “nếm” rượu. Lão là thằng thích rượu, khi uống, cứ tì tì chén 1 chén 1; đã uống là phải uống cho đã, phải “tưng tửng” say mới chịu rời bàn. Còn Thắng, thuộc thành phần thêm người cụng chén cho rôm rả nên lão lấy điện thoại, định gọi thêm chiến hữu thì Thắng cản: - “Hôm nay em có chuyện muốn nói với anh. Chỉ anh em mình ngồi với nhau.”. Thấy lạ, nhưng nghĩ chắc cu em muốn tâm sự chuyện gia đình, chuyện học hành, hoặc chuyện yêu đương... nên lão gật đầu.
 

CHẠM THU, MẶC NIỆM SEN, VÔ NGÔN - Thơ Tịnh Bình


    


CHẠM THU
 
Chợt xa rồi khúc giao mùa bảng lảng
Lá mùa thu ẩn hiện sớm mai thơm
Ngày ươm gió mọc đầy trời hoang vắng
Áo vàng thu phơ phất nắng mơ màng
 
Nghe se sẽ dịu dàng hương nội cỏ
Chạm cúc hoa ngỡ màu nhớ tinh khôi
Thu kịp đến trao mùa xưa thinh lặng
Lơ đãng heo may bối rối hương thầm
 
Hong tóc gió trở về mùa thiếu nữ
Hát vu vơ theo bầy sẻ vô tư
Thu lắng đọng thương mùa sen đi vắng
Ru nồng nàn giọt ký ức mềm môi
 
Mưa thánh thót vỗ về đêm lặng
Phố trầm tư tiếng gió mơ hồ
Rưng sắc lá tiễn mùa quá vãng
Lối mờ sương loang vết thu tàn...
 

Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2025

“MÔ NGƯ NHI, NHẠN KHÂU BÀI” BÀI TỪ MÀ LÝ MẠC SẦU HÁT TRONG TRUYỆN “THẦN ĐIÊU HIỆP LỮ - Đông Phương Bá


Hình: Internet

Mô ngư nhi - Nhạn khâu bài từ mà nữ ma đầu Lý Mạc Sầu thường hay đọc trong tác phẩm Thần Điêu Hiệp Lữ.

Ai đọc tiểu thuyết hay coi các bản phim kiếm hiệp chuyển thể từ tiểu thuyết Thần Điêu Hiệp Lữ của cố nhà văn Kim Dung, chắc cũng có ấn tượng về bài thơ của nữ ma đầu Lý Mạc Sầu, vì tình mà tác ác đa đoan. Không ít người thuộc lòng, nhưng chắc không phải ai cũng rõ xuất xứ bài này.

BÙI GIÁNG, GÁI MỘT CON TRÔNG MÒN CON MẮT - Trần Hoàng Vy


Bùi Giáng và Thu Trang

Trong bài thơ Mắt buồn in trong tập Mưa nguồn xuất bản tại Sài Gòn năm 1962, có 2 câu thơ kết đã gây nhiều tranh cãi trong giới văn nghệ sĩ của miền Nam trước 1975 và cả đến bây giờ là: “Bây giờ riêng đối diện tôi/ Còn hai con mắt khóc người một con”.
Người ta thắc mắc với hình ảnh “Còn hai con mắt khóc người một con” là như thế nào? Điều đó có hàm ý gì và ẩn nghĩa ra sao? Có rất nhiều giả thuyết và giai thoại được đem ra giải thích, song có vẽ như chưa thật sự thuyết phục, trừ khi đấy là lời thú nhận từ chính bản thân Trung niên thi sĩ, nếu ngài… sống dậy!

TANG ĐIỀN, TANG HẢI, TANG THƯƠNG - Mỹ Trinh.



Bể dâu” vốn là cách nói vắn tắt của thành ngữ Hán văn “thương hải tang điền” (蒼海桑田), nghĩa là “biển xanh biến thành ruộng dâu”. Điển tích này xuất phát từ “Thần tiên truyện”: tiên nữ Ma Cô từng kể rằng trong khoảng thời gian quen biết Vương Phương Bình, bà đã ba lần chứng kiến biển Đông biến thành ruộng dâu. Ý niệm ấy trở thành một hình ảnh ẩn dụ để chỉ sự biến đổi lớn lao, khôn lường của vũ trụ.
 

Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2025

TÔI CẢM THẤY XẤU HỔ - Khuất Đẩu

"Khi tôi đọc nhẫm một câu thơ, hay một câu nhạc hay; tôi thường nhớ về các ông Tây truyền đạo này với lòng biết ơn đầy kính trọng...".
 
Cha-Alexandre-De-Rhodes

Tôi thực sự cảm thấy xấu hổ! Hơn 300 năm trước, bằng 24 chữ cái và 5 dấu các giáo sĩ dòng Tên và cha Đắc Lộ đã cơ bản ghi lại trên giấy thứ tiếng “hót như chim” của người Việt.
Đó là cánh cửa thần kỳ mở ra cho cả Đàng Trong và Đàng Ngoài cơ hội tiếp cận với văn minh Âu châu.
 

Thứ Năm, 25 tháng 9, 2025

ĐÊM MÃI THANH XUÂN – Thơ Trần Mai Ngân


    
                                Nguồn ảnh trên google.

Đêm nhen nhúm cháy nồng nàn tình cũ
Của thanh xuân trên miền trắng đôi bờ
Đôi tay níu, bấu riết cõi ơ hờ
Ú ớ gọi tên nhau không tròn tiếng...
 
Đêm bồng lai mênh mang đêm giữ lại
Một đêm nay và chỉ một đêm nay
Ngực căng đầy mùi hương ủ không phai
Nốt son đỏ phập phồng theo nhịp thở...
 
Đêm cứ thế trốn tìm nhau bỡ ngỡ
Trong chập chùng trong mê dại ...trong nhau
Nụ môi hoa xin uống cạn ngọt ngào
Vầng nguyệt khuyết treo cao làm nhân chứng...
 
Vầng nguyệt khuyết treo cao làm nhân chứng !
 
                                                 Trần Mai Ngân

THỦY TẠ 水榭 – Ung Chu



Các công trình xây trên mặt nước hoặc bao quanh là nước thường được gọi là "thuỷ tạ", ở Việt Nam có nhiều nhà hàng thuỷ tạ. Một số người cho rằng "thuỷ tạ" là cách viết sai chính tả, lập luận rằng phải là "thuỷ toạ" với "toạ" nghĩa là ngồi.

Tuy nhiên, "thuỷ tạ" 水榭 là từ lâu đời trong Hán ngữ, tiếng Nhật đọc là "sui-sha" すいしゃ, tiếng Hàn đọc là "su-sa" 수사.

- thuỷ : nước
- tạ : nhà xây trên nền cao (đài, bệ, sàn...), tức là thay vì xây trực tiếp trên mặt đất thì sẽ làm một cái nền nâng lên rồi mới xây, chữ này mang bộ "mộc" (cây gỗ) và kí âm bằng chữ "xạ" .
 
Thôi Thực 崔湜 thời Đường có thơ đề rằng:
 
水榭宜時陟
山樓向晚看
 
Thuỷ tạ nghi thời trắc
Sơn lâu hướng vãn khan
 
Nghĩa là:

Leo lên thuỷ tạ vào thời điểm thích hợp, ngắm nhìn nhà lầu ở núi lúc nhá nhem.
                                                                                           Ung Chu

THỜI GIAN BAY TRÊN PHƯƠNG BẮC – Thơ Trần Vấn Lệ


        

Hình như ai cũng thức / dậy rất trễ sáng nay?
Sương mù trắng ngọn cây và thành phố lành lạnh...
 
Lá vàng rung óng ánh.  Gió nhẹ mang mùi băng
dẫu một chút thoáng ngang, hiểu:  tuyết trên phía Bắc
đang rơi.  Thành phố ngập.  Kỷ niệm bắt đầu buồn?
Ở đó sau mùa sương!  Ở đó đang mùa tuyết!
Đoàn Thị Điểm từng viết:  "Sương như búa bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô!"
 
Chắc chắn có người hô:  "Hoan Hô Trời Đã Lạnh!".
 
*
Sáng nay tôi hiu quạnh:  bạn chưa dậy với mình
Mở máy thấy màn hình mà email không có!
"Em ngủ ngon!  Anh ngó / cái mặt em, mặt trời!
Em thức, nhắc em cười:  Hôn Em Chào Buổi Sáng!"
 
Tóc nàng có sợi trắng. 
Tưổi nàng hay tuyết bay?
 
                                                              Trần Vấn Lệ

KÝ ỨC HÀ NỘI - Chùm thơ Đặng Xuân Xuyến


   

 
VỀ THĂM HÀ NỘI
(Tặng Nguyễn Minh)
 
Tôi xa Hà Nội, xa Hà Nội
Mới đó thôi mà bấy năm trôi
Bạn cũ gặp nhau nhìn rất vội
Nụ cười te tẻ hé trên môi.
 
Ờ gió heo may đã mỏng rồi
Mây chiều cũng ít bảng lảng trôi
Giờ còn ai đợi canh chừng tối
Dụ một tiếng reo thả chỗ ngồi?!
 
Tôi lặng nghe lòng chất vấn tôi
Người ta giờ đã khác xưa rồi
Thời gian thì cứ trôi vồi vội
Tôi lại giam mình góc xa xôi.
 
Tôi biết nhưng mà biết vậy thôi
Chuyện xưa còn giữ được mấy hồi
Tôi về Hà Nội thăm Hà Nội
Mua chút niềm riêng ngủ quên rồi...
 
Hà Nội, ngày 9 tháng 2-2025
 

Thứ Hai, 22 tháng 9, 2025

ĐYNH TRẦM CA, LỤC BÌNH NGỪNG TRỔ BÔNG – Nông Hồng Diệu


Ảnh : Đynh Trầm Ca
 
“Nhánh mù u con bướm vàng không đậu
Câu ca từ thuở thơ dại ru sang
Sông quê, trường làng, con đò trên cát lở
Cũng vì em xa mà thành điệu nhớ não lòng…”
 
Tác giả “Sông quê” nay đã 83 tuổi. Ông đang sống ở quê nhà Quảng Nam sau quãng đời gió bụi. Đynh Trầm Ca đã ngưng sáng tác khoảng 20 năm nay. Phải chăng, với ông, thơ và nhạc cuối cùng chỉ là… phù phiếm?
Đynh Trầm Ca nổi tiếng từ trước 1975 với nhạc phẩm “Ru con tình cũ”:
 
“Ba năm qua em trở thành thiếu phụ
Ngồi ru con ru quên phận buồn…”.
 
“Ru con tình cũ” được Đynh Trầm Ca sáng tác năm 1967 nhưng phải 3 năm sau, 1970, nhạc phẩm mới được phổ biến qua tiếng hát Lệ Thu. Đây cũng được xem như sáng tác đầu tay của Đynh Trầm Ca.
 

HUY HOÀNG (輝煌)- Bài viết của Khánh Ly


Hình ảnh: Huy hoàng (輝煌) -  thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ.

"Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm."
                      (Giục giã, Xuân Diệu)
 
Huy hoàng, chữ Hán viết 輝煌 - một từ gợi lên nét nghĩa rực rỡ, lộng lẫy trong tiếng Việt. Huy hoàng thường được dùng trong đời sống và văn chương, ngoài nét nghĩa rực rỡ thì còn miêu tả thành tựu xuất sắc, thời kỳ vẻ vang hoặc những khoảnh khắc tỏa sáng của con người.
 
Trong đó, Huy có nghĩa là ánh sáng rực rỡ, giống như sách Thuyết Văn Giải Tự chú rằng “Huy, quang dã”, tạm dịch là: Huy, nghĩa là ánh sáng vậy. Chữ này thuộc loại hình thanh, gồm bộ quang biểu ý, gợi đến sự sáng sủa, bao quát mọi nguồn sáng nói chung và chữ quân cho âm. Ngoài huy hoàng, từ quang huy mà ta hay gặp dùng nghĩa của chữ Huy này.
Hoàng cũng có nghĩa là ánh sáng rực rỡ. Đây là chữ hình thanh kiêm hội ý, gồm bộ hỏa biểu ý ánh lửa cháy rực. Chữ hoàng vừa là phần cho âm, vừa tượng trưng cho sự cao quý và rực rỡ của bậc vương giả. Chữ này bổ sung cho chữ Huy sắc thái lộng lẫy, như ánh lửa bùng cháy kiêu sa. 

Thứ Bảy, 20 tháng 9, 2025

O HUẾ XƯA - Thơ Huỳnh Tâm Hoài, Tố Mai phổ nhạc và trình bày

          
             

PHẢN HỒI BÀI VIẾT CỦA NHÀ VĂN UÔNG TRIỀU - Đặng Chương Ngạn

Nguồn:
https://www.facebook.com/dangchuongngan/posts/pfbid02ay8QijCXZPNfxGNgi5uBgjUwTDsxLaxHY46MravQPYggEbfTkLRPb6cnxFHpmXzDl

Nhà văn Đặng Chương Ngạn

Nhà văn Uông Triều vừa đăng một bài viết về tôi: “ÔNG ĐẶNG CHƯƠNG NGẠN ĐẶT ĐIỀU, VU KHỐNG VÀ BỊA ĐẶT”, có nhiều quan điểm sai trái, vu khống và nhầm lẫn. Vì vậy, tôi sao chép về đây để phản hồi từng nội dung một, nhằm làm rõ vấn đề.
Một số người luôn hỏi tại sao tôi viết nhiều như vậy, trong khi gần đây, để bảo vệ việc trao giải thưởng không phù hợp, Báo Văn nghệ liên tục đăng 5 bài viết, và hôm nay nhà văn Uông Triều lại viết tiếp bài mới “Đây là lần cuối cùng tôi nói về những chuyện này”. Dù trước đây, ông ấy đã từng tuyên bố: “Tôi chỉ nói lần này rồi thôi!”

Link bài viết của nhà văn Uông Triều:
https://www.facebook.com/thay.uong.622022/posts/pfbid02GGLutPn4Dvcq3w6aDnhYPPTSpGavfcSeoE9JKAM2TNJxLMnbx1BJvyBZbDF4D2u5l
 

Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2025

CHÙM THƠ QUÊN GIÀ CỦA ÁI NHÂN


  
         ÁI NHÂN
         ĐT: 0984470914
         ĐC: 84 Ngõ 27 Long biên 1, Ngọc lâm, Long biên, Hà nội
         TK: 10524096395016 Tecomban

 
QUÊN GIÀ
 
Ngu ngơ quên lối về già
Đa đoan sang bến đàn bà gạ yêu
Cuộc đời dài ngắn bao nhiêu
Bon chen chi lắm cho nhiều chua cay
 
Si tình ngả ngớn lên say
Bẩy cung chìm nổi mới hay cõi người
Ngây thơ duyên dáng xinh cười
Mà mơ nhặt được những mười ánh trăng
 
Tóc dài, da trắng, tay măng
Hồn âm ỉ lửa đổ xăng cháy bùng
Chiêm bao em hẹn tương phùng
Dắt tay mơ đến tận cùng… cõi yêu

 

THA HƯƠNG HOÀI THUYỀN TRÔI TRONG SƯƠNG – Trần Vấn Lệ

        

Khi mùa Thu tới...em nhìn với anh nha:  Những nhánh lá hiên nhà vì em mà nghiêng xuống!
 
Em à, anh rất muốn hôn em ngay bây giờ... mười ngón tay em Thơ, mười ngón chân em ngọc!
 
Ô hay!  Sao em khóc?  Anh hôn mắt, hết nha!  Những nhánh cây la đà... hôn em từng sợi tóc...
 
Bạn ơn, chữ Hạnh Phúc là Thơ, đó, đọc đi!  Thơ có thể Đường Thi mình đi gặp Tôn Nữ...
 
Mình gặp lại quá khứ, một Lịch Sử Nước Non Hai Bà Trưng Nữ Vương, hai con voi quỳ, đó...
 
Tên Tô Định là cỏ tên Giặc Cỏ của Tàu!  Ông Thi Sách làm sao mà quân mày nỡ giết?
 
Sức mạnh của dân Việt, có thể giờ vẫn chưa!  Trước Mã Viện, ta thua... Ta trầm mình sông Hát!
 
Thương giống dân Hồng Lạc đi lạc mãi... mù sa!  Đồng bào ơi, khóc nha, thương tiếc thời dĩ vãng...
 
Đất Nước mình chỉ sáng khi nó có Mặt Trời!
 
Bao giờ có Mặt Trời?  Đấm ngực đi!  Mà hỏi!  Mà nhớ Trần Dần nói:  "Tôi đi không thấy phố thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ...".
 
*
Khi mùa Thu tới đang ngoài ngõ, anh hôn mình nha, hai bàn chân!  Mình vẫn mùa Xuân xanh mái tóc.  Tha hương hoài, Tình Ơi Mênh Mông! 
 
Em vẫn mùa Xuân xanh mái tóc tha hương hoài thuyền trôi trong sương...
 
                                                                                    Trần Vấn Lệ

MẸ CHA – Thơ Lê Kim Thượng


   

 
Mẹ - Cha
 
1.
Người xa, trở lại quê nhà
Bước chân lối cỏ, nắng tà chân đê
Người về lưng tựa bóng quê
Ấm lòng trong những vỗ về thương yêu
Vi vu gió thổi sáo diều
Bóng ai như bóng Mẹ yêu đang chờ
Ruộng đồng xanh thẩm đôi bờ
Dòng sông ngày ấy, tuổi thơ lên mười
Bến sông một đóa hoa cười
Nước trôi mang nặng tình người say mê
Người về tìm mái nhà quê
Tìm hình bóng Mẹ nhớ về… Ngày xưa
Mẹ - Cha cày cấy nắng mưa
Nhọc nhằn, tần tảo sớm trưa trên đồng
Một đời sống với nghề nông
Cơm no, áo ấm hằng mong ơn Trời…
 
2.
Con giờ góc biển chân trời
Công Cha, nghĩa Mẹ… rối bời lòng con
Ruộng đồng mưa nắng mỏi mòn
Sớm mai sương trắng, hoàng hôn nắng tà
Quê hương là Mẹ, là Cha
Nuôi ta khôn lớn, nuôi ta thành người
Cha cho con một cuộc đời
Mẹ cho hơi ấm, ngàn lời ru êm
Cha là ánh sáng trong đêm
Cho con vững bước khi thêm tuổi đời
Mẹ là cánh võng tuyệt vời
Câu ca dao cũ ầu ơi … ngọt ngòn
Giờ con Chữ Hiếu chưa tròn
Công Cha, nghĩa Mẹ…héo hon võ vàng
Đâu là hạnh phúc thế gian
Có Cha, có Mẹ muôn vàn yêu thương…
       
                 Nha Trang, tháng 09. 2025
                          Lê Kim Thượng

BUỔI CHIỀU MÙA THU, SƯƠNG TRẮNG BAY – Thơ Tịnh Bình


   


BUỔI CHIỀU MÙA THU
 
Rơi chiếc lá thu thật khẽ
Dường như chiều mênh mông...
 
Ngón tay gầy lướt trên phím thời gian
Cọng gió thổi sợi buồn mê mải
Ánh mắt màu thu u uẩn
Ám ảnh suốt mùa dài
 
Gió về lối gió
Những đám mây màu tro như chực khóc
Chiều ầng ậng nước
Lòng tưởng êm tiếng sóng
Muôn lối đổ về sông
 
Chiếc lá cuối cùng vờ đi đâu đó
Chiều trống rỗng mênh mông
Khúc hát mùa thu ai ngân nga giai điệu
Như dắt tôi về vườn xưa
Vùng cỏ dại sương mù...
 

Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2025

BUỒN TÌNH NÓI BÁ VƠ – Trần Vấn Lệ


Nhà thơ Trần Vấn Lệ duyên vẽ theo yêu cầu của Nguyệt Mai

Đã bảy giờ chưa thấy chút nắng nào lóe lên.  Hôm nay chắc "an yên" nên ông trời cứ ngủ?
 
Nhà sư vừa gõ mõ, không thấy tín đồ nào.  Trời mù nên không cao...cũng chưa Rằm tháng Bảy!
 
Rằm tháng Bảy xá tội những người chết mong chờ có một bữa no nê dẫu chỉ là quá khứ!
 
Bây giờ đời đổi chữ Rằm Tháng Bảy Ngày Nhớ Mẹ - Mẹ của Mình mà Thôi.
 
Thời thế cái thế thời.  Nhất Hạnh cười vui vẻ... Thành Phố Bến Tre né được trái bom nào đâu!
 
Nhất Hanh lựa được màu hoa hồng cài lên áo... Nhất Hạnh mở đường Đạo:  Mừng Lễ Vu Lan Bồn...
 
*
Bàn Làm cứ Bàn Làm!
Bài thơ này vô tự!
Triệu triệu người xa xứ buồn tình nói bá vơ...
 
                                                                                  Trần Vấn Lệ

Thứ Năm, 11 tháng 9, 2025

PHẢN HỒI NHÀ BÁO HÀ ĐÌNH NGUYÊN - Tiểu Vũ

Về ý kiến: “Lấy bằng chứng nào để minh định ‘Nắng chiều’ là bản Bolero đầu tiên ở Việt Nam?


Câu hỏi của nhà báo Hà Đình Nguyên là một chất vấn xác đáng và cần thiết, nhất là trong bối cảnh lịch sử âm nhạc Việt Nam còn không ít khoảng mờ và các dòng nhạc du nhập thường giao thoa, khó phân định ranh giới rạch ròi. Việc xác định một bản nhạc được xem là đầu tiên trong một dòng chảy âm nhạc như Bolero không thể dựa vào cảm tính, mà đòi hỏi sự khảo cứu kỹ lưỡng từ nhiều hướng tiếp cận khác nhau.

Thực ra, băn khoăn của anh Nguyên cũng là điều nhiều người yêu nhạc từng đặt ra. Rằng liệu có đủ căn cứ để xác định “Nắng chiều” là bản Bolero đầu tiên được viết tại Việt Nam? Câu hỏi ấy, bên cạnh giá trị học thuật, còn gợi mở một không gian rộng hơn – không gian của ký ức nghệ thuật, của những dấu mốc mở đường và cả một niềm tự hào lặng lẽ nơi những ai đã yêu và gắn bó với Bolero qua nhiều thế hệ.

XÃ TẮC 社稷 - Nguyễn Việt sưu tầm



là thần Đất.
TẮC là thần lúa. (Tắc là một thứ lúa, hột gạo màu vàng, xưa cho là đứng đầu các thứ lúa gạo, nên thần coi các thứ lúa cũng gọi là Tắc).
Xã tắc ban đầu chỉ thần đất và thần lúa, rồi mang nghĩa “chỗ tế thần đất, thần lúa”. Chỗ tế này được gọi là XÃ TẮC ĐÀN (社稷壇), là một trong các loại đàn tế cổ, được các vị Vua cho lập để tế Xã thần (Thần Đất) và Tắc thần (tức Thần Nông) - hai vị thần của nền văn minh lúa nước.
 Xưa kia, hễ họ vua này mất về họ vua kia, thì nơi thờ thần XÃ-TẮC cũng đổi thay theo. Vì thế, XÃ TẮC mở rộng nghĩa là “đất nước” và thường được gộp chung với “giang sơn” để có cách gọi  “giang sơn xã tắc”.
 
                                                                           Nguyễn Việt sưu tầm

KIM DUNG VIẾT “TRIỆU MINH” HAY “TRIỆU MẪN”? - La Thụy sưu tầm và biên tập

Nhiều người cho rằng dịch giả Từ Khánh Phụng trước 1975 trong bản "Cô gái đồ long" dịch sai tên nhân vật là TRIỆU MINH 趙明. Các bản dịch "Ỷ thiên đồ long ký" hiện nay nhân vật này là TRIỆU MẪN 赵敏
 

Facer John Tran lên tiếng: 
"Bản gốc đăng lần đầu trên Minh Báo viết 趙明 TRIỆU MINH, bản phim do TVB sản xuất năm 1978 cũng ghi tên nhân vật là 趙明  TRIỆU MINH,
Kim Dung không đặt’ thì ai đặt? Trước khi chỉ trích dịch giả, làm ơn tìm hiểu bản gốc của đoạn mình đang chỉ trích."
 
Tự điển Bách khoa toàn thư Wikipedia ghi:
 
"Trong bản in lần thứ nhất của Ỷ thiên đồ long ký, Triệu Mẫn có tên là Triệu Minh (Zhao Ming), tên thật là Minh Minh Đặc Mục Nhĩ (Mingming Temür), phong hiệu là Triệu Minh quận chúa. Trong bản in lần thứ hai, Triệu Minh đổi tên là Triệu Mẫn (Zhao Min) 赵敏, tên thật là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ (Minmin Temür), phong hiệu là Triệu Mẫn quận chúa. Triệu Minh hay Triệu Mẫn đều là tên Hán do cô tự đặt cho mình.
Kim Dung miêu tả về Triệu Mẫn như sau: "Xinh đẹp vô cùng, nhan sắc diễm lệ, mặt sáng như ngọc, mắt trong như nước, nét cười dịu dàng, diễm lệ. Chỉ trong một hai câu nói cũng không thể miêu tả được hết vẻ đáng yêu, thuần khiết và xinh xắn của nàng".
 
Bản gốc đăng lần đầu trên Minh Báo viết 趙明 TRIỆU MINH

PHONG CÁCH ĐỘC ĐÁO VÀ KHÁC BIỆT TRONG THƠ VỀ RƯỢU CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN – Nguyễn Toàn Thắng

                (Bài viết có dùng thông tin tổng hợp từ Chat GPT)

Tác giả Nguyễn Toàn Thắng (bìa trái) cùng Đặng Xuân Xuyến (bìa phải)
 
 Thơ viết về rượu của Đặng Xuân Xuyến có một vị trí riêng biệt và khá độc đáo trong bối cảnh thơ Việt hiện đại, khác biệt so với cả hai xu hướng chính là "thơ thị trường hóa" và "thơ học thuật hóa". Ông tạo ra một phong cách riêng và khác biệt ở chỗ: không quá trau chuốt về mặt hình thức nhưng lại rất chân thật và đậm chất đời sống với ngôn ngữ thuần dân gian, có chút ngang tàng, đôi khi lại cố tình “tục hóa” để phản kháng sự giả dối hay sáo mòn của văn chương bác học, đặc biệt là trong việc thể hiện nỗi cô đơn và những trải nghiệm cá nhân. Ông không cố gắng tạo ra tượng đài tư tưởng, mà là người "giữ ký ức bằng ngôn ngữ", "ghi lại những chấn động ngắn ngủi của tâm hồn" một cách sắc hoặc mờ, nhưng luôn thật. Ngay cả khi miêu tả cảnh xác thịt, đó là cái "tục của người từng trải", mang ý nghĩa nhấn mạnh phận người chứ không nhằm mục đích gây sốc hay dơ bẩn.
 
So với các nhà thơ đương đại khác, thơ của Đặng Xuân Xuyến có thể được coi là độc đáo khi ông không ngại ngần phơi bày những góc khuất, những điều tiêu cực của cuộc sống và đối diện trực tiếp với những góc khuất, những điều tiêu cực đó, điều mà nhiều nhà thơ đương đại khác thường tìm cách né tránh. Ông không dùng rượu để giải thoát hay tìm kiếm những điều siêu nhiên mà thay vào đó, rượu được ông đặt trong bối cảnh đời thường, gắn liền với những nỗi niềm, trăn trở của cuộc sống hiện thực. Ông sử dụng rượu như một công cụ để đối diện với những khó khăn, thử thách và cả những nỗi buồn, mất mát trong cuộc sống, chứ không phải để trốn tránh hay quên lãng.