BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2025

CA SĨ NHƯ QUỲNH SAU NĂM 1975 – Nguyễn Phú Yên


Ca sĩ Như Quỳnh và cha, ông Lê Văn Chánh.

Sài Gòn sụp đổ. Cuộc sống gia đình của ca sĩ Như Quỳnh cũng đảo lộn theo. Ca sĩ Như Quỳnh, tên thật là Lê Lâm Quỳnh Như, sinh năm 1970, quê ở Quảng Trị và chuyển vào Sài Gòn từ năm 1971. Khi Sài Gòn thất thủ, cô mới chỉ là một cô bé 5 tuổi.
    
Gia đình của Như Quỳnh rơi vào cảnh nghèo khó. Một trong những nguyên nhân là vì cha cô, ông Lê Văn Chánh, phải đi học tập cải tạo. Ông Chánh là một sĩ quan an ninh của quân đội VNCH.

“TƯƠNG BIỆT DẠ”, “TÌNH SẦU”, THƠ HUYỀN KIÊU – Phạm Hiền Mây

                       
                                                                                                 Huyền Kiêu Bùi Lão Kiều  (1916 - 1995) hưởng thọ 80t


I. HUYỀN KIÊU, NGHĨA LÀ KIÊU, THÊM DẤU HUYỀN

Nhà thơ Huyền Kiêu tên thật là Bùi Lão Kiều. Huyền Kiêu có nghĩa là Kiêu, thêm dấu Huyền, thành Kiều.

Ông sinh năm 1915, và mất năm 1995, thọ tám mươi tuổi.

Ngoài làm thơ, ông còn là dịch giả. Huyền Kiêu làm thơ không nhiều. Ông nổi tiếng với hai bài Tương Biệt DạTình Sầu.

LẮNG NGHE “THƠ ĐỜI NGÂN VỌNG” CỦA LA THỤY – Minh Trí

Nguồn: 
https://baobinhthuan.com.vn/lang-nghe-tho-doi-ngan-vong-130225.html


“Thơ đời ngân vọng” là tên tập thơ của tác giả La Thụy (tên thật: Đoàn Minh Phú) Hội viên Hội Văn học - Nghệ thuật Bình Thuận, tập hợp 45 bài thơ, trong đó có 17 bài thơ Đường luật (gồm 12 bài thất ngôn bát cú, 5 bài thất ngôn tứ tuyệt), 14 bài lục bát cùng các bài ở những thể thơ khác.
 

Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2025

KHI NGƯỜI TÙ TRỞ VỀ… - Phan Nhật Nam



Sau 30 tháng 4, 1975 tôi đi dọc đường số 1 một lần. Lần độc nhất với đôi mắt khép lại để khỏi nhìn. Để đừng thấy. Tôi không nói quá – Lần trở về Nam ngày 29 tháng 5, 1988 sau mười-hai năm lưu đày đất Bắc. Tàu vào địa giới Miền Nam, qua Đông Hà, Ái Tử, Quảng Trị, La Vang… lúc trời mờ sáng. Tôi biết rõ tàu đang chạy qua những chốn nào. Vốn người gốc Quảng Trị, năm 1966-1967 hành quân từ Thừa Thiên ra Quảng Trị, tôi dẫn quân đi dọc Phá Tam Giang không cần xem bản đồ. Tàu đến Huế sáng 30 tháng 5 – ngày Phật đản.
 
Những năm trước 1968, ngày Phật đản ở Huế là một quốc lễ. Chợ Đông Ba không bán thịt; bún bò gánh chỉ nấu bún chay. Và đêm đến, trên sông Hương người Huế làm lễ Phóng đăng. Nhánh sông nhỏ dưới khu Gia Hội bồng bềnh giải ánh sáng lấp lánh trên nước như cảnh thần tiên. Mọi người nói giọng thấp xuống, nhỏ lại, chen tiếng niệm Phật A di đà Phật… Nam mô bổn sư… Những người hung tợn nhất xóm hóa ra hiền từ, nhân ái. Chỉ một đoạn đường mấy trăm thước của đường Trung Bộ (nơi tôi ra đời, sau 1954 đổi thành Tô Hiến Thành) có đến bốn chùa, và nhiều am, miếu. Chùa lớn, Diệu Đế; am Mã Ông Trạng. 

TRONG KHU VƯỜN MÙA HẠ, ĐOM ĐÓM ĐÊM HÈ – Thơ Tịnh Bình


       


TRONG KHU VƯỜN MÙA HẠ

Trong khu vườn xanh tiếng chim
Mát rượi đường bay của gió
Tôi trộm nghe đâu đó
Vài lời tình tự của cỏ và rêu
 
Huyên náo bên ngoài nhường chỗ lặng im
Mùa hạ chẳng thèm đánh thức lũ ve trưa ngái ngủ
Tiếng rao cất lên đứt quãng
Chưa kịp gọi ta về miền thơ ấu hôm qua
 
Đôi lúc chợt thèm cơn mưa áp thấp ban mai
Ngưng đọng màu trời xám xịt trôi ngang phố
Những mái ngói rêu cứ điềm nhiên xanh
Mặc lũ loa kèn váy áo tinh tươm ùa vào lòng phố
 
Với tay hái cho riêng mình chùm cổ tích
Nhắm mắt nghe lời gió vô thanh
Miền quá vãng chẳng thể nào quay lại...
 

EM TÌNH YÊU BÁT NGÁT NẮNG MÙA XUÂN – Trần Vấn Lệ



Hôm nay nắng!  Chỗ tôi ngồi, chỗ nắng.  Câu mở đầu:  Anh Nhớ Lắm Em Yêu!  Tôi tưởng tượng buổi-chiều-nay-vẫn-nắng, anh yêu em anh cắn nhé vành tai...
 
Em đưa hai tay.  Hai bàn tay, mười ngón, có mười thương của một bài Ca Dao.  Tôi yêu em!  Tôi uống nắng ngọt ngào:  Em Trên Hết Những Tựa Đề Bài Thơ Đẹp Nhất!
 
Em hiền từ!  Em của anh là Phật!  Bốn cảnh đời ai dàn vậy Thiên Thu?  Ai làm cho những buổi sáng sương mù?  Ai quét được hết khu rừng đầy lá? 
 
Không có ai!  Không có ai, em ạ.  Máy móc chế tạo ra từ khối óc sân si, từ tấm lòng hiểu biết chẳng có chi... Lá vẫn rơi dưới chân của người ta giẫm nó...
 
Cứ mỗi đầu Xuân, em thấy đồng xanh cỏ!  Không lúc nào em-không-mùa-Xuân-của-anh!  Ánh mắt em long lanh mong manh vòng quanh anh chữ Đạo!
 
Bên kia sông, những con chim sáo... Chúng sẽ bay về chiều nay hoàng hôn?  Cả thế gian chiêm ngưỡng Giáo Hoàng.  người im lặng nhường Tình Yêu Tiếng Nói!
 
*
Anh hôn em và có một câu hỏi:  Tại Vì Sao Em Có Mặt Trên Cõi Đời Này? Em là mây, mây giăng giăng đầu núi.  Em là thơ Thanh Thủy một dòng sông...
 
Em không đáp anh đâu nhưng anh nghe rõ tiếng lòng Tim Em Đập Êm Êm và không bao giờ dừng lại!  Anh hôn em, hứa rồi hôn mãi mãi.  Em-Tình-Yêu-Bát-Ngát-Nắng-Mùa-Xuân...
 
                                                                                      Trần Vấn Lệ

HOÀNG HOA – Thơ Lê Kim Thượng


   
 

Hoàng Hoa 1-2
 
1.
Cái ngày xưa ấy… “Ngày xưa…”
Em vừa đôi chín, tôi vừa đôi mươi
Những ngày mình có nhau rồi
Trăm năm thề hẹn một đời không xa
Áo em in nắng hoàng hoa
Hoa rơi lãng đãng, bóng tà nắng tan
Nón em đổ bóng hoa vàng
Lời em thủ thỉ, nhẹ nhàng biết bao
Trong vòng tay ấm nôn nao
Mắt đen lúng liếng, ngọt ngào môi em
Hôn em, hôn cánh môi mềm
Hôn rồi, hôn nữa, hôn thêm không rời
Cuộc tình sao cứ bồi hồi
Rưng rưng cái mất, chơi vơi cái còn
Cuối ngày, chiều tím hoàng hôn
Rời nhau không nỡ, nụ hôn còn đầy
Bên nhau, ngày đã cạn ngày
Trời giăng mưa bụi, lây rây ướt người
Còn vầng trăng sáng giữa trời
Chứng minh thề hẹn, trọn đời yêu nhau…
 
2.
Lời thề sao lại qua mau?
Có người đi lạc… cau trầu rụng rơi
Lời yêu đã hứa trọn đời
Tình xa, tình lỡ… rối bời nghiêng chao
Cuộc tình giờ đã hư hao
Vườn tình ngày ấy đã xao xác rồi
Hoa Xoan tím rụng đầy trời
Nhạt màu chung thủy… buồn ơi là buồn
Đã bao mùa Cải trổ ngồng
Em đi biền biệt vẫn không quay về
Rượu say, nửa tỉnh, nửa mê
Mình tôi ngồi với câu thề bẻ đôi
Tình ta chỉ có vậy thôi
Giờ còn sót lại một lời thề xưa
Tôi đem kỷ niệm đong đưa
Chôn vào ký ức cho vừa thương yêu
Lối xưa ai rẽ nửa chiều
Để cho ai nhớ, ai yêu âm thầm…
Bây giờ em tóc hoa râm
Vẫn còn vương chút hương thầm… “Ngày xưa…”
       
                                    Nha Trang, tháng 05. 2025
                                            Lê Kim Thượng             

VẪN CÒN MÙA XUÂN, VẪN THÁNG NĂM - Thơ Quách Như Nguyệt, nhạc Liên Bình Định, ca sĩ Tuyết Mai Ly trình bày

          
             

Thứ Tư, 14 tháng 5, 2025

“VẤN NẠN”, LÀ CCC GÌ ? – Hoàng Hải Vân


Tác giả Hoàng Hải Vân

Nếu như lão nông tôi một hôm nổi hứng lên nói với dzợ, rằng “vấn nạn kẹt xe ở Sài Gòn này không biết bao giờ mới được giải quyết”, thì chắc nàng sẽ bảo “ông bị khùng hả ?”. Thế mà trên nhiều phương tiện truyền thông khoảng vài chục năm gần đây một số trí thức và nhà báo hay sính dùng những cụm từ “Vấn nạn tham nhũng”, “Vấn nạn gian lận thi cử”, “6 vấn nạn tồn tại khiến giao thông TP.HCM tắc nghẽn”, “Những vấn nạn đáng báo động” 
 
Hai chữ “Vấn nạn” (問難) dù có trong tiếng Hán, nhưng tra trong bất cứ cuốn từ điển chữ Hán hay Hán-Việt nào, nó đều có nghĩa là “Hỏi khó” hoặc “Chất vấn hóc búa”.
Ví dụ trong Luận Ngữ :
“Tử Cống vấn nạn ư Khổng Tử” 子貢問難於孔子
(Nghĩa là : Tử Cống hỏi khó Khổng Tử).

“GIANG HỒ”, THƠ PHẠM HỮU QUANG – Phạm Hiền Mây



I. GIANG HỒ NGHĨA LÀ GÌ?

Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt
Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà

Là hai câu thơ, thú vị và thi vị, nhiều năm nay, vẫn luôn được mọi người nhắc đến trong niềm yêu mến và đầy thương tưởng.
Giang hồ nghĩa là gì, mà sao trong thơ ca, văn chương và cả đời thường nữa, lại nhắc tới nhiều đến vậy?

Học giả Đào Duy Anh trong Giản Yếu Hán Việt tự điển giải nghĩa  hai chữ “giang hồ” như sau: Tam giang và ngũ hồ là chỗ ẩn dật, không có chỗ định trú, hư phù, không tin được. Nghĩa rộng ra, “giang hồ” là từ dùng để chỉ cuộc sống phóng túng, rày đây mai đó, không ở yên một chỗ.

Thứ Ba, 13 tháng 5, 2025

ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ VỀ VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN - Đoàn Như Tùng Tony



Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, toàn bộ những giá trị kinh tế – xã hội của miền Nam đều bị xóa bỏ và thay thế bởi những khái niệm, chuẩn mực mới của miền Bắc XHCN. Riêng về lịch sử, triều Nguyễn (1802 – 1945) chịu sự phê phán, lên án hết sức nặng nề. Tất cả đường phố Sài Gòn có biển tên vua quan triều Nguyễn đều bị xóa bỏ, thay bằng những tên khác như Nguyễn Hoàng (bị thay bằng Trần Phú), Gia Long (Lý Tự Trọng), Thành Thái (An Dương Vương), Minh Mạng (Ngô Gia Tự), Hiền Vương (Võ thị Sáu), Lê Văn Duyệt (Cách Mạng tháng, Võ Di Nguy (Phan Đình Phùng), Nguyễn Huỳnh Đức ( Huỳnh Văn Bánh), Trương Minh Giảng (Lê Văn Sỹ), Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ), Võ Tánh ( Hoàng văn Thụ) v.vv… Những ngôi trường miền Nam nổi tiếng một thời, mang tên vua chúa và các khai quốc công thần triều Nguyễn cũng chịu chung số phận bị xóa tên như Gia Long, Petrus Ký, Lê Văn Duyệt, Trịnh Hoài Đức, Châu Văn Tiếp, Phan Thanh Giản …Đặc biệt địa danh “Gia Định” để chỉ một vùng đất là thủ phủ miền Nam đã tồn tại hơn 200 năm cũng bị xóa mất. Sách giáo khoa và tham khảo trong nhà trường phổ thông dùng những từ ngữ hết sức “cay nghiệt” khi nói về các vua chúa nhà Nguyễn :
 
“…Triều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng dựng lên bằng một cuộc chiến tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm lược của người nước ngoài. Gia Long lên làm vua lập nên triều Nguyễn sau khi đàn áp cuộc chiến tranh cách mạng của nông dân… Triều Nguyễn là vương triều tối phản động… Bản chất cực kỳ phản động của chế độ nhà Nguyễn bộc lộ rõ ngay từ đầu qua những hành động khủng bố, trả thù vô cùng đê hèn của Nguyễn Ánh đối với các lãnh tụ nông dân và những người thuộc phái Tây Sơn kể cả phụ nữ và trẻ em…”
“Chính quyển nhà Nguyễn hoàn toàn đối lập với nhân dân và dân tộc. Nó chỉ đại diện cho quyền lợi của những thế lực phong kiến phản động, tàn tạ, nó không có cơ sở xã hội nào khác ngoài giai cấp địa chủ. Vì vậy, các vua nhà Nguyễn từ Gia Long (1802-1819) đến Minh Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847),Tự Đức (1847-1883) đều rất sợ nhân dân và lo lắng đề phòng các hành động lật đổ. Chính vì khiếp nhược trước phong trào nhân dân mà nhà Nguyễn không dám đóng đô ở Thăng Long, phải dời vào Huế”.
 

Thứ Hai, 12 tháng 5, 2025

HIỆN TƯỢNG DUYÊN ANH - Huỳnh Phan Anh

Trong khảo luận Huỳnh Phan Anh đặt câu hỏi: “Những người đọc trẻ tuổi của Duyên Anh, thật ra họ đã tìm kiếm cái gì trong trang sách của ông, và họ đã bắt gặp cái gì?”
Và ông trả lời: “…theo tôi rất đơn giản. Họ (độc giả trẻ tuổi của Duyên Anh) tìm kiếm chính hình ảnh của họ, chính thế giới của họ. Họ tìm kiếm chính họ.”
 

Cá nhân tôi không mấy đồng ý. Chúng tôi, những độc giả nhi đồng lúc đó làm sao biết mình là ai để tìm kiếm chính mình? Lứa tuổi thiếu nhi chưa biết tìm hình ảnh của mình nhưng ngược lại ước ao làm Bồn Lừa đá banh tài hoa dù chưa từng lên Ban Mê Thuột; mơ thành Người Quang Trung cầm quân; ước sau này lớn cũng có một người bạn gái cùng dạo phố khuya đếm những bóng đèn đường đêm Giáng sinh, như Chương với Phượng trong Phượng Vỹ ở Thái Bình.
Độc giả tuổi nhỏ không tìm kiếm chính hình ảnh của mình mà ước sao những hình ảnh Duyên Anh tạo ra sẽ xảy đến với mình. Điều đó gọi là mộng mơ.
                                                                                         Anh Trinh

NHÀ THƠ HỮU LOAN KHÓC GIỮA SÀI GÒN… - Cung Tích Biền


Nhà thơ Hữu Loan

Thật hạnh ngộ khi chúng tôi được gặp nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim, cùng một số vị trong vụ án Nhân văn – Giai phẩm, những năm từ 1957 về sau, trên đất Bắc.
 
Sau tháng Tư 1975, trước khi nhà thơ Hữu Loan có dịp vào Nam, đã có một số thân hữu từ miền Nam ra Bắc thăm ông. Khó có thể mô tả cảnh nghèo khó của gia đình ông thuở ấy, lại khó hình dung ra cái tình cảnh cô đơn của một Hữu Loan bị chính quyền cô lập trong bao nhiêu năm.
 
Nhà văn Cung Tích Biền

Ông vào thăm Sàigòn khá muộn màng, có thể do điều kiện kinh tế quá khó khăn. Anh em chúng tôi có dàn xếp một ngày để tiếp ông. Cà phê sáng, dùng cơm trưa, buổi chiều đưa ông đi dạo chơi đó đây. Thuở ấy chỉ toàn xe đạp, sang trọng tí chút là xe gắn máy. Ông rất hồi hộp khi ngồi yên sau xe gắn máy. Ông luôn bảo “Đèo nhau xe đạp, chậm rãi, thì bình an hơn”.
 

MỘT THỜI XE THAN – Đinh Hoa Lư



Nhớ về ngày đó, cứ độ tết đến xuân đó là lúc mọi người lo chạy "đáo đôn" mục đích làm sao có mấy ngày ăn tết đầy đủ. Cảnh xa nhà như giới giới công nhân lo chuyện về quê, sinh viên có dịp nghỉ học...ai cũng lo chuyện về nhà ăn tết, bù lại bao ngày làm việc quần quật hay miệt mài học tập ở chốn thành đô.
   
Hai chữ VỀ QUÊ gắn liền nỗi âu lo với cái vé xe đò. Hôm nay phương tiện đi lại quá ư đầy đủ, hiện đại, lớp trẻ sinh sau khó lòng tưởng tượng ra nỗi khổ ngày trước. Thời nay, thừa cung hơn cầu, nhất là cái chuyện đi lại đó đây thật quá dễ dàng. Bà con khỏi cần đưa tay nhấc cái máy điện thoại như mấy năm trước, mà chỉ cần 'bấm chọt' vào cái Iphone, chút chi thì có chiếc xe đời mới tới ngay trước nhà đón mình. Nếu phải tới bến xe thì chẳng cần chen chúc mua vé như xưa, lại còn ngồi thoải mái trên hàng ghế nệm êm ru... chưa kể đến máy bay, một hình ảnh bà con mình ngày xưa làm sao nghĩ tới? Nhưng thời này, máy bay bay quốc nội, quốc ngoại đầy đủ toàn là "phản lực" mới ngon!

ĐƯỜNG MÂY TRẮNG GỌI – Thơ Tịnh Bình


  

 
ĐƯỜNG MÂY TRẮNG GỌI
 
Giọt nước nào rơi xuống
Hạt bụi nào bay lên
Nỗi buồn như rất thật
Sao chẳng thể thành tên...
 
Phiến mây trầm u uất
Lạc về đâu mưa nguồn
Lũ ve ngày tháng hạ
Dóng dả tựa hồi chuông
 
Triệu bước đi mải miết
Trên con đường ngàn năm
Trong vô vàn gương mặt
Đâu chân diện mục mình ?
 
Người rong chơi sáu cõi
Đã đến và rời xa
Dưới bóng cây cổ thụ
Hoài niệm ánh trăng già
 
Đời ta sương lá cỏ
Trước bình minh cúi đầu
Đường xưa mây trắng gọi
Đã qua rồi bể dâu...
 
                        Tịnh Bình
                        (Tây Ninh)

THƯƠNG NHỚ MẸ - Thơ Quách Như Nguyệt, nhạc Đặng Vương Quân, ca sĩ Tâm Thư trình bày


            


THƯƠNG NHỚ MẸ
 
Bao nhiêu bài thơ con làm
Chưa bài nào con làm cho mẹ
Hôm nay đọc những bài thơ về mẹ,
của bạn bè, con cảm thấy xót xa
Đúng quá đúng những bài thơ ngợi ca
Nước mắt con tuôn trào
Thấy thổn thức, thấy nhớ thương vật vã!
 
Hai mươi năm kể từ ngày mẹ mất
Con lạc loài, hụt hẫng lắm mẹ ơi
Không còn mẹ, ai dậy dỗ trên đời
Những lúc khổ chẳng còn ai tâm sự
Ai khuyến khích, ai mừng con khá giả
Ai nghe con chia sẻ chuyện âu sầu...
 
Khi quấn khăn tang mầu buồn trắng lên đầu,
dẫu vẫn biết... từ đây mình mất mát
Đâu ngờ rằng mất nhiều quá mẹ ơi!
 
Không có ai hiểu con bằng mẹ hiểu
Mất mẹ rồi, trống vắng biết bao nhiêu
Thèm mẹ mắng, nghe mẹ cười hớn hở
Mất thật rồi… ai nâng đỡ, thương yêu
Mẹ thương con, tình thương vô điều kiện
Mẹ thương con tình mẹ chẳng bến bờ
 
Bao nhiêu tuổi vẫn là con của mẹ
Mẹ mất rồi con bé bỏng với ai
Bao nhiêu tuổi vẫn là con gái mẹ
Thèm dụi đầu vào nách mẹ, ôm vai
 
Hoa hồng trắng con ngậm ngùi cài áo
Cài hàng năm vào ngày lễ Vu Lan
Nhớ mẹ yêu con đã khóc nghẹn ngào
Tháng Bẩy ta mùa Vu Lan báo hiếu
Mẹ còn đâu mà đền trả, mẹ yêu…
 
Mẹ yêu ơi hôm nay con nhớ quá
Nhớ mẹ hiền, con nhớ quá mẹ ơi?
Ngày hiền mẫu không còn mẹ trên đời
Thương nhớ mẹ, mẹ của con, mẹ hỡi…

                                   May 7th, 2015
                              Quách Như Nguyệt

MẸ CỦA TÔI MUÔN NĂM ĐỪNG AI NGĂN TÔI NHỚ - Trần Vấn Lệ



Hàng năm cứ tháng Năm, nhớ chớ Ngày Của Mẹ.  Không ai ngăn giọt lệ NGÀY DÀNH CHO MẸ MÌNH!
 
Ngày đó, từ bình minh đã nghe tiếng chim hót, chuông Chùa như chỉ rót xuống bàn tay từng người...
 
Chuông Nhà Thờ cũng rơi... rơi từ sáng đến tối, từ trong ngõ lầy lội đến đại lộ thênh thang...
 
Không phải ngày huy hoàng.  Quả thật chưa ai thấy... chỉ Mẹ đi như chạy lo cho Ba đi làm...
 
Khi cái xe bus vàng đậu lại, Mẹ dẫn tới hai đứa con đứng đợi, Mẹ gửi theo nụ hôn...
 
*
Hạnh Phúc, người ta... buồn?  Tôi thấy người ta khóc!  Mẹ tôi và Tổ Quốc của tôi ơi!  Xa vời...
 
Anh, chị, cũng thế thôi - chúng ta đều đi lạc vòng tay của Âu Cơ!  Chúng ta đều trẻ thơ, không ai không nhớ Mẹ!
 
Tổng Thống Ngô Đình Diệm kể:  "Tôi theo Đạo của Cha nhưng mỗi Giao Thừa qua theo Mẹ đi Lễ Phật...
 
... tôi không, không thể ác đàn áp các Thầy đâu!".  Ngô Đình Diệm vò đầu của mình buồn chan chứa...
 
Thôi!  Tôi nói như rứa!  21 tháng 8 một chín sáu ba đó:  Sài Gòn - Bàn Thờ - Phật ngổn ngang...có Trái Tim Bằng Vàng Thầy Quảng Đức không nát...
 
Trên những cánh đồng mạ lời ca còn vang vang:
"Mẹ còn, con ăn cơm với cá!  Mẹ mất không ai kho cá cho con ăn...".
 
Mẹ!  Mẹ của tôi Muôn Năm
đừng ai ngăn tôi nhớ! 
 
                                                                                 Trần Vấn Lệ  

Chủ Nhật, 11 tháng 5, 2025

SỰ THẬT VỀ “VỊ” TRONG “KHAI VỊ” 開胃 - Tiếng Việt giàu đẹp

“Khai vị” là một từ gốc Hán, vốn được viết từ hai chữ 開胃, trong đó “khai” () có nghĩa là “mở’ (như trong “khai giảng”, “công khai”...) còn “vị” () được Việt Hán Thông Thoại Tự Vị của Đỗ Văn Đáp giảng là “dạ dầy, một cái trong lục phủ, lệch về bên tả, ở dưới hoành cách mô”. Đây cũng là “vị” trong “vùng thượng vị” (vùng phía trên của bụng, có ranh giới từ rốn trở lên đến phía dưới xương ức).


“Khai vị” là món được dùng đầu tiên trong một bữa tiệc. Hẳn vì liên quan đến món ăn nên nhiều người đã hiểu rằng “vị” ở đây chính là “vị” trong “hương vị”, “mùi vị” và “khai vị” có nghĩa là “khai mở hương vị”. Thực tế thì nghĩa đen của từ này không “lộng lẫy" như thế.
 

Thứ Sáu, 9 tháng 5, 2025

PHẬT XUỐNG ĐƯỜNG MỘT CÔNG ÁN BÁT NHÃ –Trần Kiêm Đoàn


Hình minh hoạ - Nguồn: Online

Những dư chấn do lịch sử để lại trên mỗi đất nước đều có nguyên nhân và hậu quả không giống nhau. Lịch sử Việt Nam bị bóng đè trầm trọng nhất là từ Tàu đô hộ, Tây xâm lăng và những trào lưu ngoại nhập.
 
Đạo Phật Việt Nam cũng khởi phát từ trào lưu văn hóa tôn giáo ngoại nhập nhưng hành trình hai mươi thế kỷ đã tinh lọc được những gì hợp với những đặc tính dân tộc Việt thì còn và những gì mang bản chất ngoại lai không dung hóa được với dòng sinh mệnh của dân Việt thì sẽ bị âm thầm hay tự biến tướng đào thải. Quá trình đào thải đó có khi diễn ra tức khắc, có khi kéo dài theo thời gian tùy vào thực trạng kinh tế, xã hội, văn hóa hội tụ mà hình thành nếp sống tâm linh, tôn giáo.

PHU NHÂN MỘT VỊ TƯỚNG - Đinh Yên Thảo


Bà Nguyễn Tường Nhung, trưởng nữ của nhà văn Thạch Lam

1. Sơ ngộ

Bà cho số nhà lộn một số nên chúng tôi đảo xe một vòng vẫn chưa tìm ra. Vị khách của bà bấm điện thoại gọi lại, nhà ngay mặt đường, chỉ chạy thêm một đoạn là đến. Dừng xe thì bà đã đứng đợi trước ngôi nhà xinh xắn nho nhỏ, vẫy tay chào nhưng không đợi mà bước vào nhà.

Còn đôi năm nữa là bước vào tuổi 90, trông bà vẫn khá khoẻ mạnh và hoạt bát, có phần thời trang với cái nón và chiếc khăn quàng cổ bắt mắt. Gặp bà lần đầu tiên theo lời rủ của một anh bạn nhà báo, chúng tôi cùng đến thăm bà. Không biết gì nhiều về bà ngoài cái tên và chút gia thế đã đọc được đó đây khi bà ra hồi ký đôi năm trước. Tôi cảm nhận ngay nét quý phái, thanh lịch của những phụ nữ trí thức Hà thành di cư lẫn sự gần gũi, ân cần của người miền Nam qua cách bà tiếp đón và xưng hô cùng chúng tôi. Về nhà đọc sách của bà, thấy ấn tượng lần sơ ngộ của mình không sai mấy. Nhưng hãy trở lại điều này sau.

Thứ Năm, 8 tháng 5, 2025

ĐI ĂN NEM LỤI SÃI – Đinh Hoa Lư


Bạn bè Nguyễn Hoàng về thăm Nem Sãi sau 40 năm
 
Thuở 'ăn hàng' của chúng tôi xem ra cũng 'xưa' lắm nhất so với nhịp độ phát triển của đất nước hiện nay. Tuy thế khi tâm hồn mình còn gắn bó với yêu thương và tiếc nhớ với những gì mộc mạc bình thường hay nói khác đi những nét đời bình dị của một thời đã qua thì chúng ta hay thích kể lại.
 
Chúng ta nhắc lại cũng có khi lại muốn cho con cháu sau này hình dung ra hay cho chúng ta cùng nhau nhớ về tuổi nhỏ. Nhớ làm sao hình ảnh ngày đó, một thời vui chơi; nào là hương đồng cỏ nội khi lang thang bắn chim câu cá cạnh bờ tre mép nước. Cũng không quên được phố chợ một thời bao ngõ đi về ấm áp tình thân...

Thứ Tư, 7 tháng 5, 2025

EM QUA DỊU DÀNG – Thơ Phan Quỳ


   

Em đi qua tôi một chiều năm cũ
Áo mơ vàng như chiếc lá thu rơi
Tôi chờ đợi một mùa xuân nắng mới
Màu hồng tươi trong rạng rỡ đất trời.
 
Em đi qua tôi một ngày giông bão
Cơn gió lay nhiều những nụ tình phơi
Ngày chìm sâu cho đêm mở lời mời
Chào hiu quạnh về trong từng nhịp thở.
 
Em đi qua tôi cho một lần dang dỡ
Tuổi xuân thì trôi dạt mấy xa xôi
Tôi đếm bước chân buồn lên phố nhỏ
Tay đón màu sương khói lên tóc, môi.
 
Em đi qua tôi sông nước chảy mù khơi
Trên tàng lá trên ngàn hoa vời vợi
Bên thềm vắng cung đàn tôi để lạnh
Dây phím chùng câu hát mãi buông lơi.
 
Em đi qua tôi ánh trăng soi rười rượi
Hắt hiu buồn lên mấy rặng lau thưa
Đâu sông Tương, đâu Tầm Dương bến đợi
Tôi lặng nhìn, thơ thẩn một trời mơ...
 
                                                    Phan Quỳ

HÃY GỌI THÁP CHÀM, NGƯỜI CHÀM! - Nguyễn Chương Mt



* Cách gọi "Chăm", chú ý, chỉ mới xuất hiện ... "qui định" từ 1979 trở lại đây mà thôi. Trong khi "CHÀM" đã là cách gọi của người Việt suốt VÀI TRĂM NĂM và người CHAM cũng chấp nhận cách gọi "CHÀM" từ người Việt, đã lâu rồi!

* Rất thú vị, hiện nay vẫn đang định vị với tên gọi "Thành phố Phan Rang - Tháp CHÀM" (không gọi "Chăm") thuộc tỉnh Ninh Thuận.

1.
Có một số người cho rằng nói "CHÀM" là không phải phép, là miệt thị (?!). Nhà nghiên cứu Inrasara lên tiếng (trong bài "Chăm hay CHÀM đúng?"):

"Người viết bài này (Inrasara) năm 1994 vẫn có một tiểu luận đăng trên tạp chí Văn học: “Ca dao - dân ca, tiếng nói trữ tình của dân tộc CHÀM” hay có bài thơ có tên là “Apsara, vũ nữ CHÀM” (Tháp nắng, 1996). Tôi phân biệt đối xử với chính tôi à?".