Dẫn nhập:
Những
ngày áp cuối tháng 4, Sàigòn bắt đầu hỗn loạn. Võ Phiến rời tòa soạn Bách Khoa
trên đường Phan Đình Phùng để đến từ giã người bạn tâm giao là Nguyễn Hiến Lê.
Đôi bạn cùng ngậm ngùi. Cả hai đều biết sẽ không gặp lại. Sang đến Mỹ, Võ Phiến
không bao giờ quên dòng nước mắt lăn trên má người bạn có sở học uyên thâm.
Võ
Phiến chọn ra đi. Nguyễn Hiến Lê chọn ở lại vì trong nội chiến Nam-Bắc, cụ Lê
dành nhiều cảm tình cho phía “cách mạng”. Rồi chứng kiến “xã hội mới, con người
mới” của phía chiến thắng áp đặt lên đồng bào đã đầu hàng, cụ Lê phê phán không
tương nhượng.
Sống
đúng với lương tâm của mình, là tiêu chí của Nguyễn Hiến Lê.
Trần Vũ
(January 13th, 2024)
THẤT
BẠI TRONG HÒA BÌNH
Nguyễn Hiến Lê
Mấy tháng đầu sau ngày 30-4-75, các bạn kháng chiến,
già cũng như trẻ, nhất là trẻ, đều có tâm lý chung là hăm hở hưởng thụ sau mấy
chục năm gian khổ sống chui, sống nhủi trong rừng, trong bụi, dưới hố dưới hầm.
Đành rằng phải bắt tay ngay vào việc kiến thiết, nhưng đã có đường lối sẵn rồi,
có kinh nghiệm 20 năm ở Bắc thì không có gì khó; vả lại đã thắng được Mỹ, thành
cường quốc thứ ba trên thế giới, sau Nga và Trung Hoa thì có việc gì mà làm
không được, chỉ trong 5 năm sẽ tiến bộ, 20 năm sẽ đuổi kịp Nhật Bản về kinh tế.
Muốn kiến thiết thì trước hết phải san phẳng chế độ cũ
đã không để lại một dấu vết nào cả. Phải đuổi hết các nhân viên cũ, để anh em
cách mạng chia nhau tất cả các chức vụ lớn nhỏ. Phải diệt bọn tư bản, chiếm nhà
cửa, tài sản như núi của họ, chia nhau mỗi người một chút. “Đó là quyền của mình mà!”
Thời chiến hễ nung được lòng yêu nước của quốc dân rồi,
giữ cho lòng đó đừng giảm, quốc dân kiên trì chịu đựng được tới phút chót thì
không còn vấn đề gì nữa: thiếu cái gì đã có Nga, Trung Hoa cung cấp cho; trái lại
trong thời bình mới phải đương đầu với nhiều vấn đề nội bộ, ngoại giao, kinh tế,
nhất là kinh tế. Nước ta nghèo, thiếu vốn đầu tư thiếu kỹ thuật gia, khó phát
triển kinh tế mau được. Thất bại về kinh tế thì sự nghiệp của cách mạng sụp đổ.
Bây giờ 5 năm sau ngày 30-4-75, hết kế hoạch ngũ niên
đầu tiên rồi, chúng ta mới thấy cơ hồ chẳng tiến bộ về một phương diện nào hết
mà còn thụt lùi nữa, và ai lạc quan tới mấy cũng phải nhận chúng ta đã bỏ phí 5
năm, và không biết phải mấy năm nữa mới bắt lại được thời gian đã mất đó. Trong
khi ấy thì thế giới cứ vùn vụt tiến tới.
Không
đoàn kết
Thất bại lớn nhất, theo tôi, là không đoàn kết được quốc
dân. Tháng 5-1975, có ít nhất là 90% người miền Nam hướng về miền Bắc, mang ơn
miền Bắc đã đuổi được Mỹ đi, lập lại hòa bình, và ai cũng có thiện chí tận lực
làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ 6, 7 tháng sau, cuối 1975 đã có đa
số người Nam chán chế độ ngoài Bắc, chán đồng bào Bắc. Tôi nhớ như ở phần trên
tôi đã nói năm 1976, trong một cuộc hội nghị ở Sài Gòn, bàn về vấn đề thống nhất
quốc gia, một học giả lão thành miền Bắc, ông Đào Duy Anh (đã có hồi sống ở Nam
nhiều năm, có nhiều bạn thân ở Nam) khi được mời phát biểu ý kiến, chỉ nói mỗi
một câu đại ý là thống nhất cái gì cũng dễ; quan trọng nhất là phải thống nhất
nhân tâm đã. Cả hội trường sửng sốt và làm thinh.
Ông Anh đã nhận xét đúng và dám nói. Quả thực là lúc
đó có sự chia rẽ nặng giữa người Nam và người Bắc, Nam đã không muốn thống nhất
với Bắc rồi. Từ đó, tinh thần chia rẽ cứ mỗi ngày mỗi tăng, năm nay (1980) có
thể nói 90% người miền Nam hay hơn nữa, muốn tách khỏi miền Bắc.
Có
nhiều nguyên nhân.
Nguyên nhân chính theo tôi là người miền Bắc vơ đũa cả
nắm, coi người Nam là “ngụy” hết, trụy
lạc, bị nhiễm độc nặng của Mỹ. Ngay hạng trí thức miền Bắc như ông Đào Duy Anh
cũng có thành kiến rằng dân Sài Gòn hư hỏng quá rồi Họ chỉ nhìn bề ngoài, chỉ
thấy một số thanh niên híp pi, lêu bêu ở ngoài đường; tôi phải giảng cho họ hiểu
rằng đó chỉ là thiểu số, chứ đại đa số người trong này ghét Mỹ, ghét văn minh Mỹ,
có thể nói gia đình nào cũng có người có cảm tình với kháng chiến, giúp kháng
chiến cách này hay cách khác, nếu không vậy thì làm sao kháng chiến thành công
được. Chỉ nội một việc biết người nào đó là kháng chiến mà không tố cáo cũng đủ
có công với kháng chiến, chớ đừng nói là còn che chở, giúp tiền bạc, tiếp tay
cho nữa. Chỉ trừ một số phản quốc, theo Mỹ, Thiệu triệt để vì quyền lợi, còn
thì không có gia đình nào trong Nam là ngụy cả. Một số người yêu nước, có tư
cách, mới đầu gia nhập kháng chiến, sau vì lập trường chính trị, phải rời hàng
ngũ, về thành, mà không ưa Pháp, Mỹ, hạng đó không nên coi người ta là ngụy. Bọn
thanh niên hư hỏng chỉ ở Sài Gòn mới có nhiều, mà tỉ số không cao so với những
thanh niên đứng đắn.
Người Bắc coi người Nam là ngụy, đối xử với người Nam
như thực dân da trắng đối với dân “bản xứ”,
tự cao tự đại, tự cho rằng về điểm nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được Mỹ
thì cái gì cũng làm được. Chỉ cho họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt miệng
người ta bằng câu: “Tôi là kháng chiến,
anh là ngụy thì tôi mới có lý, anh đừng nói nữa”.
Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là
kháng chiến, cách mạng đó, được Hồ chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng
những dốt về văn hóa, kỹ thuật – điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh,
họ không được học – thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài
bẩy nhau … Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự
hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách hơn kháng chiến. Và người ta đâm ra thất
vọng khi thấy chân diện mục của một số anh em cách mạng đó, thấy vài nét của xã
hội miền Bắc: bạn bè, hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái không dám nhận cha mẹ,
học trò cấp II đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú…
Trong mỗi cơ quan ở Sài Gòn cũng có sự chia rẽ. Cùng
là công nhân viên cả, mà bọn ở Bắc vô không ưa bọn Liên khu 5; hai hạng đó đều
khinh bọn ở bưng trong Nam về; bọn này lại không chơi với bọn trước kia tập kết
ra Bắc, nay trở vô Nam; bọn “nằm vùng” cũng
không ưa bọn tập kết về đó; bị khinh nhất là bọn ngụy được tạm dùng lại, mà bọn
này thạo việc hơn hết. Chỉ vì thiếu đoàn kết cho nên trong cuộc hội họp nào người
ta cũng hô hào “Đoàn kết, đại đoàn kết”.
Còn ở trong phòng họp thì ai cũng hoan hô tinh thần đoàn kết, ra khỏi phòng rồi
thì hết đoàn kết. Người ta chỉ đoàn kết với nhau vì quyền lợi thôi; do đó mà có
tinh thần bè phái, gia đình trị, và ở Bắc có câu này: Nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế.
Bất
công
Điểm thứ nhì làm cho chúng ta thất vọng là xã hội còn
bất công hơn thời trước nhiều.
Có người nói một số “ông lớn” đi đâu cũng có người hầu xách bình nước sâm Cao Ly để ông
lớn uống thay trà; một ông nọ luôn luôn có một bác sĩ ở bên và một thiếu nữ quạt
hầu vì ông không chịu được quạt máy. Tôi không biết những tin đó đúng hay
không, chỉ biết những tin đó do “anh em
cách mạng” đưa ra cả.
Một ông bạn tôi bảo có vô nhà thương mới thấy có cả chục
(sic) giai cấp bệnh nhân, tùy giai cấp mà được ở phòng nào, khám bệnh ra sao,
trị bệnh ra sao, cấp thứ thuốc nào v.v.
Người chết cũng phân biệt giai cấp khi đăng cáo phó:
cán bộ thường thì được mấy phân trên cột báo, cán bộ bự thì được mười mấy phân;
lời cáo phó cũng theo những tiêu chuẩn riêng. Đúng là đường lối Staline.
Sài Gòn được giải phóng vài năm thì ta thấy xuất hiện
ngay một hạng giàu sang mới nổi, thay thế bọn giàu sang thời Thiệu, và cũng
thích những xa xí phẩm (áo hàng thêu, hột xoàn, máy điều hòa không khí v.v.) của
thời Thiệu. Tiền đâu mà họ mua những thứ đó nhỉ?
Sự bất công chướng nhất, tàn nhẫn nhất là lương công
nhân viên từ 1975 cứ đứng yên trong khi sự phân phối nhu yếu phẩm giảm đi gần hết,
chỉ còn gạo, bo bo là tạm đủ, nhất là trong khi mãi lực của đồng bạc năm 1980
chỉ còn bằng 1/10 năm 1975; thành thử lương một công nhân viên chỉ đủ để mua củi
chụm, lương một bác sĩ mới ra trường chỉ đủ để mua rau muống ăn. Khắp thế giới
không đâu có chế độ lương bổng kỳ cục như vậy (2). Người nào cũng phải bán đồ
đi mà xài, nhờ cha mẹ giúp đỡ, nếu không thì phải xoay trở mọi cách, làm sao sống
được thì làm, chính phủ không biết tới. Một cán bộ ở Hà Nội đã phàn nàn: “Người ta có rất nhiều quyền hành mà không
có một chút tinh thần trách nhiệm nào cả. Thật lạ lùng!” Kravchenko (trang
185) nói chính phủ Nga bắt dân đói để dân biết phép chính phủ mà phải răm rắp
tuân lệnh. Ở nước ta không đến nỗi như vậy, có áp dụng chính sách đó thì chỉ áp
dụng cho những kẻ thù của chế độ thôi, tức bọn ngụy quân ngụy quyền còn ở trong
một số trại cải tạo.
Thiếu
kỷ luật
Không ai có trách nhiệm mà tinh thần bè phái quá nặng,
nên không có kỷ luật, dưới không tuân trên, loạn.
Chương trên tôi đã nói tới cái tệ mỗi tỉnh là một tiểu
quốc, địa phương tự do tới mức không tuân lệnh trung ương (ngay xã cũng không
tuân lệnh tỉnh, huyện), lấy lẽ rằng chỉ địa phương mới hiểu tình trạng của địa
phương, cấp trên không nên xen vào; cái tệ nhân viên được lệnh đi công tác mà
không đi, nằm ỳ ở nhà, một tuần sau trở lại sở, trả sự vụ lệnh mà không bị khiển
trách; cái tệ nhân viên muốn bỏ sở về giờ nào thì về, lấy cớ là phải kiếm gạo,
chủ nhiệm đành làm thinh, chứ không biết đáp sao.
Tôi kể thêm một trường hợp nữa. Ông giám đốc một cơ
quan nọ đến tuổi về hưu, bảo người giúp việc: “Tôi sẽ không về, về thì mất hết quyền lợi: xe hơi, “bìa” (sổ đặc
biệt để mua nhu yếu phẩm), nhà ở v.v. mà
còn bị xã ấp nó ăn hiếp, hoạnh họe cái này, cái khác; không, tôi không về”.
Một ông giám đốc mà sợ công an ấp vì công an có quyền bắt ai thì bắt, giam ai
thì giam. Một viên công an bảo: “Tôi làm
việc 4, 5 năm rồi, mà bây giờ mới biết quyền hạn của tôi, từ trước tôi muốn làm
gì thì làm”.
Vì mất kỷ luật, cho nên thanh niên trốn nghĩa vụ quân
sự: ở miền Nam trốn tới 90%, có nơi cả 100% mà vẫn sống yên ổn. Bắt được họ,
đưa họ ra mặt trận, họ lại trốn nữa. Không thể giam hoài họ được, gạo đâu mà
nuôi? Họ sống yên ổn ngay ở làng vì chỉ cần đút lót cho công an là êm. Còn nạn
đào ngũ thì toàn quốc tới 25%. Trước kia người ta hy sinh để giành độc lập; bây
giờ độc lập rồi lại đánh nhau với nước anh em, người ta không hăng hái nữa.
Nghe nói ở một tỉnh nọ, viên giám đốc sở tài chánh
kiêm giám đốc ngân hàng (?) ôm 60 lượng vàng cùng với 30 viên công an xuống một
chiếc tàu của chính phủ, mang theo đầy đủ khí giới (và không biết bao nhiêu lượng
vàng nữa) để vượt biên. Tin đó chưa lấy gì làm chắc nhưng chuyện công an – cây
cột chống đỡ chế độ – ôm vàng vượt biên thì mấy năm nay nghe thường quá rồi.
Tinh thần vô kỷ luật đó, không biết một phần có phải
do chính sách giáo dục trẻ em không. Người ta cấm đánh trẻ – điều đó có thể hiểu
được – cấm nghiêm khắc với trẻ, chúng nghỉ học thì lại nhà mời chúng đi học;
chúng làm biếng thì không bị phạt mà cô giáo bị trách là dạy dở. Kỳ tựu trường
có nơi còn tổ chức múa lân, đốt pháo để dụ trẻ em đi học nữa. Cô giáo nào mời
được ít trẻ thì bị rầy. Riết rồi cô giáo ngán dạy quá, cứ tự ý nghỉ bừa, hiệu
trưởng phải tới nhà năn nỉ, nếu không thì lỗi ở hiệu trưởng chứ không phải ở cô
giáo. Và người ta ngán luôn cả nghề sư phạm: dốt hoặc muốn tránh nghĩa vụ quân
sự mới phải thi vô sư phạm.
Kỷ luật như vậy, trẻ em càng được thể làm biếng, sức học
rất kém, mà tính ngỗ nghịch (bóp vú cô giáo như trên đã nói) thì quá sức tưởng
tượng. Một số cán bộ già ở Bắc vô nhận rằng trẻ em trong này ngoan ngoãn, lễ
phép. Nhưng tôi sợ rằng ít năm nữa, chúng đuổi kịp bạn chúng ở Bắc mất.
Kinh
tế suy sụp
Sự thất bại hiển nhiên nhất của chế độ là sự suy sụp của
kinh tế mà tôi đã trình bày sơ lược ở trên. Hậu quả là Việt Nam trước thế chiến
tự hào là “tiền rừng bạc bể”, có những
đồng lúa, đồn điền cao su mênh mông ở miền Nam, những mỏ than, mỏ phốt phát
(phosphate) phong phú ở miền Bắc mà bây giờ thành một trong vài nước nghèo nhất
thế giới.
Từ ngày 30-4-75, do những đồng bào ở Bắc vào, chúng ta
ở Nam mới lần lần biết cảnh điêu đứng của dân tình ngoài đó sau 20 năm sống dưới
chế độ mới. Từ trên xuống dưới ai cũng phải ăn độn có khi 60-70% (3); có hồi gạo
quý tới nỗi người ta cất vào trong những cái thố, cái liễn, trân trọng như nhân
sâm, chỉ khi nào đau ốm mới lấy ra một nhúm để nấu cháo; ngày Tết mà có đủ gạo
nấu cơm cúng ông bà là mừng lắm; khi nào được ăn một bữa cơm không độn với nước
mắm thôi thì coi như được dự một bữa tiệc. Nước mắm rất hiếm, có người ở Nghệ
An hay Hà Tĩnh mấy năm không có nước mắm ăn, gặp người trong Nam ra đem theo nước
mắm, xin một vài muỗng rồi cầm nuốt ực ngay hết, không đợi đem về nhà.
Nhiều người vào Sài Gòn thăm bà con, khi ra vơ vét đủ
thứ, từ cây đinh, khúc dây chì, lon sữa bò, ve chai … đem ra, vì ở ngoài đó thường
cần dùng tới mà không kiếm đâu ra. Họ cho miền Nam này là thiên đường. Nhưng một
người Ba Lan trong ủy ban kiểm soát quốc tế năm 1975 bảo chỉ trong 5 năm, miền
Nam sẽ “đuổi kịp miền Bắc”, nghĩa là
nghèo như miền Bắc. Lời đó đúng, rất sáng suốt. Nếu không nhờ mấy trăm ngàn kiều
bào ở ngoại quốc gởi tiền, thuốc men, thực phẩm, quần áo … về giúp bà con ở đây
thì chúng ta hiện nay cũng điêu đứng như anh em miền Bắc rồi.
Dân miền Nam từ xưa chưa bao giờ biết đói, phải ăn độn
thì năm 1979 đã phải ăn độn 70-80%, có những gia đình phải ăn bữa cơm bữa cháo,
có cô giáo và học sinh đói quá, tới lớp té xỉu
Nhà nào cũng bán đồ cũ đi để ăn; nhiều giáo viên nhà
đã trống rỗng, không còn bàn ghế nữa, ăn ngủ trên sàn. Ai cũng chỉ lo sao có
cái gì nuốt cho đầy bao tử, chứ không dám nghĩ tới miếng ngon. Tết Canh Thân vừa
rồi, ở Long Xuyên, nhà một giáo viên hồi hưu, trên bàn thờ ông bà chỉ bày một
đĩa có mấy chiếc bánh phồng và bánh gai, không có một đòn bánh tét, một quả dưa
hấu.
Khổ nhất là bọn đi kinh tế mới, thất bại, tiêu tan hết
vốn liếng, về Sài Gòn, sống cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin, moi các đống rác hôi
thối, lượm một miếng giấy vụn, một túi ni lông, một miếng sắt rỉ, một quai dép
mủ … để bán cho “ve chai”. Trông thấy đống túi ni lông được rửa qua loa trong
nước dơ rồi phơi ở lề đường để bán cho tiểu thương đựng hàng, tôi ghê tởm quá.
Không có tiền mua rau thì làm gì có tiền mua thịt. Muốn
lâu lâu có thịt thì phải nuôi heo, gà, cho nên nhiều cơ quan ngay khi mới thành
lập đã nghĩ ngay đến việc hùn tiền (hay lấy trong quỹ?) mua heo con, phân công
nhau nuôi tại khu ở tập thể, như vậy đến lễ, Tết mới có thịt liên hoan. Người
ta thèm thịt quá, cho nên liên hoan lu bù, bất kỳ một dịp gì cũng liên hoan được:
một bạn đồng nghiệp được ban khen, ngày tựu trường, bãi trường, họp bạn để học
tập, ban hành hiến pháp mới, làm xong một công tác, mỗi ngày lễ, Tết … mỗi năm
liên hoan cả chục lần là ít.
Cơ quan nào cũng có đủ nhà bếp, chén đĩa, xoong chảo,
người làm bếp (lựa trong nhân viên) để nấu ăn làm tiệc Và khi ngồi vào bàn tiệc
thì chẳng ai mời ai, đợi ai, mạnh ai nấy gắp, ăn cho thật mau (tới nỗi có người
bảo cứ nuốt trước rồi sẽ nhai sau!), tệ gấp 10 thói ăn uống ở đình làng mà Ngô
Tất Tố đã mạt sát trong cuốn “Việc làng”.
Nghèo thì sinh ra ở bẩn. Ngay trong khu tập thể một
trường Đại học Hà Nội, phòng một giáo sư ở Pháp về cũng dơ dáy, từ sàn gạch đến
tường đều đầy vết bẩn. Hỏi như vậy làm sao chịu được, ông ta nhún vai đáp: “Lâu rồi quen đi” Không nên trách ông
ta. Dù muốn sống sạch cũng không thể được: đâu có vôi để quét tường? đâu có xà
bông để rửa sàn? đâu có giẻ để lau? Nước thì có nhưng phải xuống dưới sân để hứng
rồi xách lên 5-6 chục bực thang, ai mà không ngại?
Phải, lâu rồi thì quen đi. Nếu tình trạng không thay đổi
thì chỉ mươi năm nữa, toàn dân sẽ quen đi, không thấy gì là bẩn nữa. Hiện nay ở
trong Nam đã nhiều nhà để bụi đóng đầy bàn ghế – mà trước kia họ sống rất sạch
– mạng nhện giăng đầy trần, còn dân thị xã thì đã quen với cảnh 4, 5 người cùi
nằm trên đường đưa tới chợ, lăn ở giữa chợ để xin ăn.
Câu “nghèo cho sạch,
rách cho thơm” của ông cha, chúng ta không giữ được vì chúng ta nghèo tới mức
không thể ở sạch được.
NGUYỄN HIẾN LÊ
Trần Vũ sưu tầm
*
Nguồn:
https://www.saigonweeklyonline.com/tham-luan/hoc-gia-nguyen-hien-le-that-bai-trong-hoa-binh.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét