BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 10 tháng 9, 2025

“VIỂN VÔNG" HAY “VIỄN VÔNG"? - Tiếng Việt giàu đẹp



Nguồn: Tiếng Việt giàu đẹp

“Thực tế chút đi, đừng có mà…”. Trong trường hợp này, ta cần điền gì vào dấu ba chấm? “Viển vông" hay “viễn vông"?
 
Nhiều người căn cứ vào chữ “viễn" với nghĩa “xa xôi" mà kết luận “viễn vông" là cách dùng đúng. Thực tế, các tư liệu chúng tôi tra cứu được đã phản ánh điều ngược lại. 
Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức giảng: 
“Viển vông: Vu vơ, không có bằng chứng gì cả: Câu chuyện viển vông”. Từ điển tiếng Việt do cụ Hoàng Phê chủ biên cũng ghi nhận: “Viển vông: rất xa rời thực tế, không thiết thực: Mơ ước viển vông. Chuyện viển vông”…
Như thế, “viển vông" mới là từ chính xác.
 

BÁT NHÃ TÂM KINH VÀ TUỆ GIÁC “ĐÁO BỈ NGẠN” - Huỳnh Duy Lộc



Bát nhã tâm kinh (Prajnaparamitahridaya-sutra; Đoàn Trung Còn dịch là Bát nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh) là một bản văn rất ngắn của Phật giáo Đại thừa được chép và đọc nhiều nhất ở Đông Á và Trung Á. Chỉ trong một trang, với những câu chữ được cho là của Bồ tát Quán Tự tại (Avalokitesvara; Đoàn Trung Còn dịch là Quán Thế âm, Quán Tự tại), Bát nhã tâm kinh luận giải học thuyết về tính Không (Sunyata) được cho là bản chất của thực tại.
Nhà sư Trần Huyền Trang (602-664) đã dịch Bát nhã tâm kinh từ tiếng Phạn sang Hán tự vào năm 649 như lời của đại sư Daisetz Teitaro Suzuki: “Bát nhã tâm kinh là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật đa (Prajñāpāramitā). Huyền Trang dịch Tâm kinh ra Hán ngữ vào năm 649…”
                                                               (Thiền luận, tập 3, tr.211).

NGUYÊN VĂN HAI CÂU THƠ CỦA BÙI GIÁNG – Dũng Hoàng

Nhân có một người hỏi Bùi Giáng viết:
“dạ thưa (1) bây giờ / vẫn còn (2) bên bờ (3)”...

Thì:
(1) là "xứ Huế" hay "phố Huế"?
(2) "núi Ngự" hay "núi ngự?"
(3) "sông Hương" hay "sông hương"?
Xin trình làng nguyên văn bài thơ của thi sĩ đăng trên tạp chí Tư Tưởng, số 1, ngày 15 tháng 3 năm 1971, trang 49.


                                                                                      Dũng Hoàng

Thứ Ba, 9 tháng 9, 2025

“SĂM SOI” VÀ “XĂM XOI” - Hoàng Tuấn Công



Vua Tiếng Việt (11/7/2025) yêu cầu “Hãy viết lại cho đúng từ sau: “xăm xoi”. Người chơi viết lại “săm soi”, liền được MC Xuân Bắc xác nhận là “Chính xác. Chúc mừng bạn”.
Như vậy, theo Vua Tiếng Việt, viết “xăm xoi” là sai chính tả.
Thực ra, “xăm xoi” không phải là lỗi chính tả của “săm soi”, mà đây là hai từ khác nhau.
 
1-SĂM SOI

“Săm soi” là gì?
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên - Vietlex) ghi cho săm soi 2 nghĩa: “1 ngắm đi ngắm lại một cách thích thú. săm soi mình trong gương ~ “Long chìa ra một chiếc đồng hồ đeo tay hiệu Seiko, săm soi giữa lòng bàn tay.” (Cao Duy Thảo). Đn: săm se; 2 nhìn với vẻ hết sức chú ý, như để phát hiện đến từng chi tiết nhỏ. “Những nhà có máu mặt trong khu này thuê bà gánh nước. (…) Họ săm soi xem thùng nước bà gánh về có trong không.” (Võ Thị Hảo). Đn: săm se”.
Chữ “săm” gốc Hán do chữ “thám” có nghĩa là dò xét.
Mối quan hệ TH↔S (thám↔săm), ta thấy xuất hiện trong rất nhiều trường hợp khác như: thâm ↔sâu; thiết ↔sắt; thải ↔sảy; tháp ↔sập (cái sập); tháp ↔sụp/sập (đổ sụp/sập),…Mối quan hệ AM ↔ ĂM, ta có thám ↔thăm; đam ↔đăm/chăm; đàm ↔chằm; đạm ↔đằm; khảm ↔khăm (cái khăm, chơi khăm),…
Với chữ “soi”, gốc Hán do chữ “chiếu” nghĩa là soi, rọi. Mối quan hệ CH↔S, ta còn thấy trong nhiều trường hợp khác như: chẩn ↔sần/sởi (sần sùi; sởi = thứ bệnh gây sốt, nổi mụn đỏ); chẩn ↔soi tìm/xem xét (trong chẩn bệnh); chu ↔son (son trong đỏ như son). Mối quan hệ IEU↔OI, như khiếu ↔gọi; khiêu ↔khơi/gợi; liễu↔rồi; triệu ↔mòi/vòi (dấu hiệu, triệu chứng); triệu ↔vời/mời/đòi,…
Trong tiếng Hán, từ thám chiếu 探照 (săm soi), được Hán ngữ đại từ điển giảng là thám tầm chiếu xạ 寻照射, nghĩa là dò tìm, soi rọi, mang nét nghĩa gần giống săm soi trong tiếng Việt.
 

Thứ Hai, 8 tháng 9, 2025

MẮT EM NHÉ ÓNG ÁNH MUÔN NĂM ĐỜI THANH BÌNH – Thơ Trần Vấn Lệ




Hôm nay hy vọng mát hơn hôm qua một giờ...
thì mùa Thu như mơ đã đến gần sự thật!
 
Sự thật giống như mật, nói mãi để bắt thèm!
Anh vẫn nghĩ tới em:  Vầng Trăng Tròn Tháng Sáu!
 
Tháng Sáu nhuần không bão, không cả mưa, nắng hoài...
Sự thật thật mỉa mai vì vẫn chưa sự thật...
 
Năm nay, năm dài nhất ba trăm chín bốn ngày...
Người mình ăn Tết Tây, Tết mình... mình quên, dám?
 
Năm mốt năm yên ổn... vì hết muốn chiến tranh!
Hòa hợp hòa giải thành giấc Nam Kha chớp mắt...
 
Mạ không còn ngồi nhặt những giọt lệ không khô!
Ba cựa mình dưới mồ, chuyện nói đùa cho có?
 
Chỉ lạ là con thỏ, hai mắt nó tròn xoe...
Chỉ lạ là bờ tre, xóm làng che mưa nắng...
 
Đường xa xa muôn dặm.  Đường Thiên Lý Thiên Thu!
Ai thắp nhang không cầu:  "Đời đừng thành tro bụi"?
 
Bây giờ, tôi đang nói:  Chưa Bảy Giờ Buổi Mai...
Bầy chim thức, đã bay.  Sương Hàng Cây Bạc Tóc!
 
*
Em ơi em!  Đừng khóc... Biển tự nhiên mà đầy...
Đời Nam Bắc Đông Tây...những dòng thơ cứ chảy.
 
Thơ anh làm để đấy chắc rồi gió sẽ tan...
Anh nhớ thơ Thế Viên... Nhớ!  Vì nó "tồn tại":
 
"Sáng nay trên bờ sông thấy em bên song cửa
mây trắng bay tần ngần tóc em vàng một nửa...
Tôi nhìn xa chợt nhớ trăng-mùa-Thu-năm-nao
soi bóng người song cửa.  Lòng bỗng dưng nghẹn ngào!
Vì sao tôi thương nhớ?  Bởi vì quá nhớ thương!
Dòng sông trôi thê lương..."
 
Một giờ nữa còn sương, chắc hôm nay sẽ lạnh...
Mắt em nhé, óng ánh, Muôn Năm Đời Thanh Bình!
 
                                                              Trần Vấn Lệ

LỐI VỀ ĐẤT MẸ - Đinh Hoa Lư

Thân tặng những người Quảng Trị từng ra đi và đã thành công nơi xứ người. (Đinh Hoa Lư)


Người Quảng Trị tha hương không phải đợi đến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, lúc khói lửa chiến tranh điêu tàn phủ chụp lên quê hương bản quán khiến hàng vạn người phải ly hương thất sở. Đó là dấu ấn u buồn đau khổ khó ai quên. Có những thế hệ trưởng bối đã "khăn gói" lên đường xa rời Quảng Trị từ trước. Những lớp trai nuôi mộng tương lai, xây dựng sự nghiệp từng ra đi với bao hoài bão trong đời.

CHÙM THƠ CÒN NGÂU CỦA ÁI NHÂN

“Ngàn năm khóc một mối tình
Hạt ngâu rơi lõm mái đình thờ yêu” – AN
 
  
         ÁI NHÂN
         ĐT: 0984470914
         ĐC: 84 Ngõ 27 Long biên 1, Ngọc lâm, Long biên, Hà nội
         TK: 10524096395016 Tecomban


CÒN NGÂU

Nỗi buồn mọc đứng như cây
Trải tình yêu giữa trang phây khoe người
Hồn nhiên khi khóc lúc cười
Chang chang nắng bỗng bời bời trở mưa
 
Mắt người sắc tựa dao cưa
Liếc ngang một cái dư thừa nỗi đau
Gót hồng giẫm nát hồn nhau
Lời thương dạo trước… còn ngâu đến giờ
 

Chủ Nhật, 7 tháng 9, 2025

NHỚ MẸ - Thơ Đặng Xuân Xuyến


   
 
 
Lòng quặn thắt
Nhớ những chiều nắng tắt
Kẽo kẹt gánh rau mẹ vội về nhà
Dáng mẹ xiêu xiêu run rẩy chiều tà
 
Cha ở phương xa
Chúng con còn bé dại
Gánh nặng gia đình trĩu nặng đôi vai
Sương buốt sớm mai
Nắng táp trưa hè nhễ nhại
Mẹ gửi đồng xa tiếng cười
Mẹ mong đơm mùa trĩu hạt
Nhọc nhằn nhuộm lời mẹ hát
 
Ngửa mặt nhìn trời tay con nắm chặt
Nước mắt ngược vào tim mặn chát
Con muốn hỏi trời cao
Con muốn cào đất rộng
Đâu là lẽ công bằng
Mẹ một đời nhân hậu thẳng ngay
Sao lắm cơ cực đắng cay
Lặng thầm qua đời mẹ
Tan nát lòng con trẻ
 
Con về thăm mẹ
Thơ thẩn vào ra hương khói nghẹn ngào.
 
Làng Đá, 02 tháng 07.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN

HÔM NAY TRỜI KHÔNG MÂY DÙ CẢ NGÀY IM GIÓ - Trần Vấn Lệ



Hôm nay trời không mây dù cả ngày im gió.  Buồn thương màu hoa cỏ, nắng, nóng, lợt, tàn, phai...
 
Mai chắc như hôm nay - cái mùa Hè dễ ghét, nóng như quân Bắc Việt dọa đi đánh Bắc Kinh!
 
Tôi không hiểu sao mình... nhớ Nước Non đủ kiểu!  Có lẽ Tàu mắc chịu dân mình nợ máu xương?
 
Chuyện đã ngàn năm hơn có ghi thời Bắc Thuộc.  Cột đồng nó dựng trước, tên nước nó đặt sau...
 
Bây giờ vẫn đỏ au cái màu cờ giống nó!  Nó bày điều dâu bể, nó giải nghĩa tang thương...
 
Nó đưa tàu Hải Dương vào biển mình xục xạo.  Nó dạy mình nói láo, nó dụ mình pháo hoa...
 
*
Chừng nào buồn trôi qua... như mây hôm nay vắng?  Chừng nào mà cái nắng dịu lòng người tha hương?
 
Nhớ bài thơ Nước Non Tản Đà làm muốn khóc!  Nhớ Bà Huyện Thanh Quan nhắc tiếng con chim Quốc rồi nhìn chiều rơi đang sâu!
 
Ngày sẽ rơi về đâu?  Về đầu non cuối biển?  Buồn có ai xao xuyến vài câu thơ nao nao? 
 
"Anh đi hả?  Anh đi đâu?  Cánh buồm nâu... cánh buồm nâu... Cánh buồm!" (*).  Hai câu thơ như chuông Giáo Đường vừa rụng xuống!
 
                                                                                       Trần Vấn Lệ
(*) Thơ Nguyễn Bính

GIỌT TRẦM VU LAN, NGÓ VỀ QUÊ MẸ, KHÚC RU TÌNH MẸ - Thơ Tịnh Bình


   

 
GIỌT TRẦM VU LAN...
 
Mẹ yêu con... Lẽ tất nhiên vẫn thế
Bởi ngàn đời nước mắt cứ chảy xuôi
Tình rộng lớn chẳng bao giờ đong đếm
Nghĩa mẹ công cha như núi ngất trời

Con khôn lớn trong vòng tay ấm áp
Nên vóc nên hình từ huyết mẹ tinh cha
Bao sương gió mẹ gánh gồng tất cả
Con vào đời nâng đôi cánh bao la

Nhưng năm tháng cứ trôi về phía trước
Mẹ già rồi... Bạc trắng mái đầu cha
Con kiêu hãnh tự cho mình tài giỏi
Những bước chân xa mãi một mái nhà

Cha già rồi... Mẹ sao mà lẩm cẩm
Thật là phiền con ngao ngán thở than
Nuôi cha mẹ con đếm đong ngày tháng
Công biển trời bao lai láng đành quên
 
Mẹ già rồi... Đâu "dám trách" con ơi!
Cha lặng lẽ thu mình vào một góc
Chữ hiếu là chi ? Con chưa được học
Tháng Bảy giọt trầm... Bật khóc đóa Vu Lan...
 

BA TÔI VÀ NỖI NIỀM NHUNG NHỚ QUÊ TRUỒI – Đinh Hoa Lư


             
                      Một sớm mưa chiều tôi rời thành xưa
                      Sông nước tiêu diều nhỏ lệ buồn đưa...
                                               (Phạm Mạnh Cương)

Tưởng nhớ hương linh Thân Phụ
 
Cơn mưa giông vùa dứt để lại một lớp không khí trong lành, mát rượi lan tỏa khắp xóm. Ba tôi ngồi yên lặng trên cái giường ọp ẹp dưới mái tranh của căn phòng lồi đằng trước nhà. Hôm nay Người cứ mãi nhìn qua khung cửa sổ khoét vội qua lớp lá buông vàng úa, cũ nát. Trong không khí ẩm thấp sau cơn mưa dưới mái nhà tranh nhỏ bé, căn nhà tranh thấp lè-tè như rên rỉ, kẻo-kẹt, lắc mình theo từng cơn gió giật. Cứ mỗi trận giông trời lại kèm theo loại gió mạnh ở vùng biển Hàm Tân.
- Hết rồi
Ba tôi nhẹ nhỏm người. Cứ mỗi lần mưa to gió lớn là ngưởi phập phồng lo sợ cho số phận mái tranh, nơi trú ngụ duy nhất cho cả gia đình.
 
Hình 1984: Tết 1984 vợ chồng tác giả ĐHL lúc mới có con trai đầu lòng, đang đứng trước căn nhà lá và phòng lồi của thân sinh (bức hình được một Việt kiều từ Tây Đức về thăm chụp tặng cho)
 
 Cuối cùng mọi chuyện cũng yên.
. Xuyên qua khung cửa sổ khoét vội ba tôi lặng yên ngắm cây phượng con, Người kiếm đâu dưới La Gi nhân đi có công chuyện. Cây phượng con coi bộ cũng hạp thứ đất ở cái xóm cát Động Đền này một thứ đất đen pha cát nên cây phượng lớn thật nhanh. Mới năm ngoái giờ thế mà nó đã vươn lên ngót nghét gần hai mét rồi.

CHÍN VỘI – Thơ Lê Kim Thượng


   


Chín Vội
1.
 
Gặp nhau ngày ấy Em – Anh
Tình yêu sét đánh mà thành dài lâu
Tình yêu chín vội, đậm sâu
Nồng nàn mình đã với nhau giao hòa…
Gom màu nắng đẹp hoàng hoa
Ướp hương trinh nữ rải tà áo bông
Em giờ mắt biếc môi hồng
Lời yêu thỏ thẻ tình nồng trong thơ
Em giờ ươm mộng dệt mơ
Tóc bay theo gió ngẩn ngơ đôi bờ
Chờ nhau chin đợi, mười chờ
Thầm thì em nói: “Em giờ của anh
Tình mình riêng chỉ có mình
Tim em ngự trị bóng hình anh thôi…”
Nhớ thương, thương nhớ khôn nguôi
Ông Tơ, Bà Nguyệt buộc đôi chúng mình...
 
2.
 
Phút giây lắng đọng lòng mình
Bồi hồi thương nhớ bóng hình người mơ
Nhớ em, nhớ đến thẫn thờ
Lòng buồn anh viết bài thơ muộn màng
Còn đây hai chữ “Hợp – Tan”
Sắt son dang dở, đá vàng dở dang
Cuộc tình lắm nỗi ngỡ ngàng
Trời đang nắng gắt, vội vàng đổ mưa
Còn đâu ngày ấy…  Ngày xưa…
Cái thương, cái nhớ nắng mưa tiêu điều
Đường tình em rẽ ngược chiều
Cho anh phải nhớ, phải yêu trọn đời
Mùa về hoa Phượng đầy trời
Hương thầm nhắc nhở một thời bên em
Tìm em như thể tìm chim…
Em đi biệt xứ biết tìm phương nao…
 
                    Nha Trang, tháng 09. 2025
                            Lê Kim Thượng

Thứ Sáu, 5 tháng 9, 2025

“CHÍN CHIỀU RUỘT ĐAU” (CỬU KHÚC HỒI TRƯỜNG) NGHĨA NHƯ THẾ NÀO? - Lê Vĩnh Húy

“Ruột đau chín chiều” là giống ôn gì?
Là do thành ngữ “Cửu khúc hồi trường” 九曲回腸 của Tàu, dùng tả trạng thái đau đớn hoặc lo lắng.
Cửu là chín, ý nói số nhiều. Khúc là chỗ uốn cong, chỗ ngoặt. Hồi là trở lại. Trường là đùm ruột.
Hình tượng Cửu khúc hồi trường nầy bắt nguồn từ hình dạng quanh co của đùm ruột, mượn đó để ẩn dụ chỗ rối rắm, phức tạp của cảm xúc nội tâm. Thành ngữ nầy thường dùng tả nỗi đau khổ của con người, hoặc cảnh tượng quanh co, khúc khuỷu của địa thế.


Thứ Ba, 19 tháng 8, 2025

THIÊN HÀ NGÔN TAI - Trần Vấn Lệ



Hôm nay, Mỹ, USA, ngày Chúa Nhật.  Là ngày nghỉ.
Ở Việt Nam, ngày Liệt Sĩ, ngày Lễ.
Ngày xưa gọi là Ngày Chiến Sĩ Trận Vong.
Ngày gì, là Ngày Lễ, đều có Ý Nghĩa Của Nó...
 
Nhất là Ngày Chiến Sĩ Trận Vong.
Cũng là Ngày Liệt Sĩ...
"Máu của thằng em đỏ cũng như máu của thằng anh"(*)
Có nhiều ngôi mộ trong rừng xanh...
 
Lát nữa tôi đi hái những trái mồng tơi
Tôi bóp nát chúng để có một chén chung mực tím,
Tôi chép lại hai câu của Giả Đảo:
"Nhị Cú Tam Niên Đắc, Nhất Ngâm Song Lệ Thùy".(**)
 
Nếu không đủ mực
Thì tôi chỉ chép lại bốn chữ của Khổng Tử:
"Dư Dục Vô Ngôn", bốn chữ thôi, còn:
"Thiên hà ngôn tai? Tứ thời hành yên, bá vật sinh yên! Thiên hà ngôn tai!"(***) để đó... nhớ!
 
"Hồi đầu thị ngạn!" - "Ngó lại là bờ".
Phật cũng làm thơ...
Năm nay, Rằm tháng Bảy chờ hơi lâu vì nhuần hai tháng Sáu.
Tấm lòng vĩ đại của người mình ôi yêu biết bao:  "Xá Tội Vong Nhân!".
                                                                                  Trần Vấn Lệ
(*) Thơ của Trụ Vũ.
(**) Hai câu thơ làm trong ba năm, mỗi lần ngâm là nước mắt chảy ( Thơ Giả Đảo)
(***) Thấy trong sách Luận Ngữ, Khổng Tử nói với học trò:"Ta không muốn nói!  Ông Trời không nói, bốn mùa đều đặn, muôn vật bình thường.  Ông Trời có nói gì đâu

CỚ SAO ĐỔI TÊN "CHIM ÉN" THÀNH "CHIM NHẠN" – Lê Mạnh Chiến



Nỗi băn khoăn khó dứt
 
Trong một lần giở cuốn Từ điển Anh Việt (của Ủy ban Khoa học Xã hội, Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản  Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975, 1960 trang, khổ 17 x 25cm), gặp từ swallow, người viết bài này không khỏi ngỡ ngàng khi nhìn thấy những dòng sau đây:
 
swallow1  dt (động)  Chim nhạn.
One swallow does not make a summer 
= Một con nhạn không làm nên mùa xuân.
 
(Từ swallow trong tiếng Anh có vài nghĩa khác nhau; swallow1 tức là nói về nghĩa thứ nhất, là danh từ chỉ tên một loại động vật)
 
Nhóm từ does not make a summer nghĩa là không làm nên mùa hạ chứ chẳng phải là không làm nên mùa xuân. 
Hơn nữa, từ swallow trong tiếng Anh (là danh từ chỉ tên chim) hoàn toàn đồng nghĩa với từ hirondelle trong tiếng Pháp và với từ chim én trong tiếng Việt. Vậy, câu “One swallow does not make a summer” phải được dịch sang tiếng Việt là “Một con én không làm nên mùa hạ”.
 
Không ít người Việt Nam đã từng biết câu ngạn ngữ “Một con én không làm nên mùa xuân”. Nó đã đến nước ta qua sách báo tiếng Pháp, vốn là câu “Une hirondelle ne fait pas le printemps”.

Thứ Hai, 18 tháng 8, 2025

TÔN TRUNG SƠN KHINH MIỆT DÂN TỘC VIỆT NAM ĐƯỢC THỦ TƯỚNG NHẬT CHO MỘT BÀI HỌC


Inukai Tsuyoshi 犬養
Thủ tướng thứ 29 của Nhật Bản

Chuyện kể rằng, trong một bữa tiệc thiết đãi Tôn Trung Sơn ở Tokyo vào năm 1911, chủ bữa tiệc, thủ tướng Nhật Bản Tsuyoshi Inukai hỏi Tôn Trung Sơn:
- Ngài nghĩ gì về dân tộc Việt Nam?
Tôn Trung Sơn đã trả lời:
- Dân tộc Việt Nam có căn tính nô lệ, xưa họ bị chúng tôi thống trị nay lại bị người Pháp thống trị, họ không thể có một tương lai thực sự sáng sủa.
Inukai trầm ngâm suy nghĩ rồi nói:
- Tôi không đồng ý với ngài về điểm này. Mặc dù hiện nay họ chưa độc lập, họ đã là dân tộc duy nhất trong nhóm Bách Việt đã chống lại thành công quá trình Hán hóa. Một dân tộc như vậy sớm muộn cũng dành được độc lập của chính mình.
Ông nói tiếp:
- Hình như ngài chưa đọc kỷ về lịch sử Trung Quốc và ngay cả lịch sử của Bách Việt trong đó có Quảng Châu, nơi gốc gác của ngài, đã bị Hán hóa đến mức mất đi hoàn toàn bản sắc văn hóa của mình, tự coi mình là người Trung Quốc.
Ngài có biết Trung Quốc đã từng bị ngoại bang đô hộ nhiều lần hay không?
Năm 947 CN dị tộc Khiết Đan (Kushan) cai trị TQ đổi tên nước là Liêu; năm 1115 CN người Nữ Chân cai trị TQ lập ra triều Kim; năm 1279 CN người Mông Cổ cai trị TQ đổi tên là Nguyên; năm 1644 người Mãn Châu cai trị TQ lập ra Nhà Thanh. So với Việt Nam thì lịch sử Trung Quốc không có gì đáng hãnh diện?
Nghe xong họ Tôn nói lảng sang chuyện khác.
 

NGẪU HỨNG CẢM TÁC VĂN NHÂN - Chùm thơ Đặng Xuân Xuyến


   


HAI "GÃ" TÀI DANH
 
Hảo hẳn đã lùn! Thiều lùn hơn?
Hai gã nhiều cơn trút oán hờn
Hảo thì quái kiệt! Thiều kỳ quái!
Xôm chuyện thi đàn, hót véo von.
 
(cảm tác ảnh trên mạng của 2 nhà thơ:
Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Quang Thiều)
Hà Nội, sáng 21 tháng 01-2025

 
"CHIÊM NGHIỆM THỜI GIAN"
(cảm tác nhân đọc “Phạm Xuân Nguyên đạo văn”)

"Kẻ làm phê bình mà ngơ ngác" (1)
Vác nhầm "Chiêm nghiệm..." (2) của người ta
Văn chương hạ giới giờ như rác
Cốt cách văn tài hệt yêu ma.
*
(1), (2): tên các bài viết của cựu Chủ tịch
Hội Nhà văn Hà Nội Phạm Xuân Nguyên.
Hà Nội, ngày 08 tháng 01-2025

HƯƠNG TUỔI THƠ, TA VỀ VỚI TUỔI THƠ TA, NGẬP NGỪNG THU – Thơ Tịnh Bình


   

 
HƯƠNG TUỔI THƠ
 
Giấu vào trong quả thị
Hương mùa thu xôn xao
Chút nắng vàng như thể
Tỏa khu vườn nôn nao
 
Gió thơm mùi cổ tích
Bà đi chợ đàng xa
Chú vàng anh đánh tiếng
Cô Tấm chợt hiện ra
 
Ơi mùa thu quả thị
Hương tuổi thơ ngọt ngào
Bao lâu rồi vẫn ngỡ
Ánh trăng vàng treo cao...
 

CẦN HIỂU ĐÚNG NAM KỲ & NAM BỘ - Tố Ngọc Trần sưu tầm



Không ít người trẻ thời nay được dạy sử kiểu này: "Vua Bảo Đại vào tháng 3/1945 đổi sang gọi Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ vì gọi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ mang tính chất kỳ thị vùng miền" (?). Cái này kêu bằng "giết sử" chớ viết sử gì nổi!
 
Phải nói về danh xưng "ba miền", theo nghĩa địa lý hiện nay (Nam, Trung, Bắc) cho có đầu có đũa cái đã.
Hồi thời vua Lê Thánh Tôn, nước Việt mới tới Phú Yên, nghĩa là chỉ có miền Bắc, và miền Trung dở dang (chưa trọn miền Trung), thành thử không có "ba miền".

Đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Đàng Trong mở rộng đến Cà Mau nhưng hùng cứ một cõi, không ăn nhập với Đàng Ngoài, thành thử cũng không thành "ba miền".
Chỉ sau khi vua Gia Long thống nhứt sơn hà thì lãnh thổ chữ S mới xôm tụ, đề huề gồm đủ Nam / Trung/ Bắc.
 
1808, vua Gia Long định lại bờ cõi mà phân địa giới khu vực: ngoài khu vực kinh thành ở miền trung, chia làm hai miền bắc nam: khu vực phía bắc gọi là "Bắc Thành", khu vực phía Nam gọi là "Gia Định Thành" bao trùm toàn miền nam gồm 5 trấn (Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh, An Giang).

Đến cột mốc "1832" mới thực đáng chú ý hơn.
Chú ý thứ nhứt: Vua Minh Mạng phân ranh địa giới thành các TỈNH, và khái niệm "tỉnh" được xài cho đến hiện nay (không còn xài cách gọi "đạo", "dinh", "trấn"... của bao nhiêu đời xửa xưa gì nữa)! Suốt 187 năm (tính cho đến năm 2019), địa giới mỗi tỉnh mỗi thời - dĩ nhiên - có thay đổi (nhập vào, tách ra, đổi tên gọi búa xua).
 
Chú ý thứ nhì: Dưới thời vua Minh Mạng xuất hiện cách gọi ba miền là Bắc Kỳ, Trung Kỳ (hồi đó gọi tỉ mỉ hơn: Hữu Kỳ, Trực Kỳ nằm nơi kinh đô, và Tả Kỳ - gộp chung lại là "Trung Kỳ"), và Nam Kỳ (toàn miền nam gồm 6 tỉnh, nên quen gọi "Nam Kỳ Lục tỉnh": Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên).
 
Sử sách rõ rành như vậy, vậy mà bây giờ nảy nòi lối viết bừa phứa. Đó, "danh xưng Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ xuất hiện dưới thời Pháp thuộc, cách gọi này mang dấu ấn thuộc địa", viết bừa như vậy mà cũng viết cho bằng được!
 
Tây vào VN, họ định danh ba miền bằng tiếng Tây "Tonkin", "Annam", "Cochinchine", làm gì có miếng tiếng Việt nào ở trỏng! Trong khi đó, người Việt vẫn giữ cách gọi chính thức của tiền nhân chúng ta - bằng tiếng Việt rành rành là "Bắc Kỳ", "Trung Kỳ", "Nam Kỳ" - suốt hơn một thế kỷ, từ năm 1832 đến năm 1945.
 
Viết sử sai bét như trên, của ông bà mình đem gán cho Tây, cầm bằng GIẾT SỬ chớ còn gì nữa!
Giết kiểu sau đây còn ghê hơn nữa: "Vua Bảo Đại vào tháng 3/1945 đổi sang gọi Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ vì gọi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ mang tính chất kỳ thị vùng miền" (?).
 
Cách gọi Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ là do tiền nhân triều Nguyễn đặt ra, nói vua Bảo Đại "bỏ đi vì nó mang tính kỳ thị vùng miền" thì có khác nào vua Bảo Đại chửi tông tổ chính mình? Cái này gọi là chiêu trò "gắp lửa bỏ tay người"!
 
Theo hồi ký của cụ Trần Trọng Kim, vua Bảo Đại vào tháng 3/1945 có đổi sang gọi "Bộ" thay vì "Kỳ", nhưng không phải với lý do của giới "giết sử" bịa ra.
Nhựt Bổn sau khi đảo chính Pháp, cầm trịch, và nghe nói thống sứ Nhựt Nashimura là người đổi CÁCH GỌI TRUYỀN THỐNG "Kỳ (Bắc, Trung, Nam)" của người Việt sang cách gọi "Bộ (Bắc, Trung, Nam)" hết ráo.
Người Nhựt, sau đó, chấp thuận cho vua Bảo Đại tuyên cáo độc lập và thành lập chánh phủ riêng của người VN (tức chánh phủ Trần Trọng Kim). Chánh phủ của vua Bảo Đại vuốt mặt cũng phải nể mũi, tạm thời không đổi "Bộ" trở lại thành "Kỳ" của tiền nhân, trong khi đó dồn công sức thực hiện một số cải cách, chẳng hạn, trong giáo dục...
 
Chánh phủ này chỉ hiện hữu mấy tháng ngắn ngủi, rồi dứt. Nhà nước VNDCCH, sau đó, sử dụng cách gọi "Bộ", nghe riết thành quen.
 
Quen đến mức nhiều người thời nay cứ tưởng "Nam Bộ" là cách gọi ... có từ thuở mở cõi miền Nam. Tưởng vậy là tưởng bở. Hai chữ "Nam Bộ" xuất hiện mới được mấy chục năm thôi giữa dòng lịch sử dài hơn ba trăm năm của đất phương Nam (với nhiều tên gọi về vùng đất này, trong đó danh xưng "Nam Kỳ lục tỉnh" có tuổi đời cách đây 187 năm, gần hai thế kỷ rồi đa).
 
Thành thử nếu viết: "Nguyễn Đình Chiểu viết Lục Vân Tiên phản ảnh khí chất con người Nam Bộ lúc bấy giờ", xét thiệt nghiêm túc thì câu viết như vậy là... trật. Cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu sống khôn thác thiêng, nếu cụ thử ghé về dương gian ắt cụ phải giật mình, "Bây viết Nam Bộ là cái giống gì? Thuở sanh tiền, ta chớ hề nghe nói tới chữ đó. Nó ... nằm ở đâu?". Nên nhớ: cụ đồ Chiểu qua đời năm 1888, bấy giờ là Nam Kỳ, mãi 57 năm sau mới nảy nòi ra tên gọi "Nam Bộ".
 
Viết cho đàng hoàng, cho tử tế, nên là: "Nguyễn Đình Chiểu viết Lục Vân Tiên phản ảnh khí chất con người NAM KỲ lục tỉnh lúc bấy giờ" (rồi chú thích "nay gọi là Nam Bộ").
 
Đặt cách gọi của giới làm chánh trị đời sau trùm lên đầu cách gọi của tiền nhân, có khác nào con đẻ ra cha, cháu đẻ ra ông!
 
                                             Theo nguồn: Facebooker Lê Văn Quý.
                                                          Tố Ngọc Trần sưu tầm