BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2025

TRỞ VỀ QUÊ CŨ – Thơ Nguyễn Bính


   
 
Đi đã mười năm mới trở về
Tâm tình tràn ngập bước đường quê
Nghe sao nao nức như hồi trẻ
Níu áo theo cha buổi hội hè!
 
Dãy núi Trang Nghiêm đứng chống trời
Mười năm núi vẫn đợi chờ tôi
Sườn cao rêu phủ xanh đồn giặc
Tôi đã về đây: núi mỉm cười!
 
Ruộng vỡ đường cày, ngõ trải rơm
Phải đây Văn Miếu lối vào thôn?
Đi lâu quên cả màu hoa đại
Quên cả mùi hương gạo tám thơm!
 
Ngõ xuống bờ ao chơi ú tim
Nhà em hàng xóm biết đâu tìm?
Biết đâu vườn táo cành sai quả
Giếng đá trăng vàng đâu bóng em?
 
Một cơn khói lửa mấy tơi bời
Cảnh cũ làng xưa khác cả rồi
Ngước mắt trông lên trời cũng lạ
Nhà ai đây chứ phải nhà tôi!
 
Hỏi tên nhận mặt nhớ ra rồi
Mừng tủi bâng khuâng khóc lẫn cười
Trẻ xóm mười năm giờ lớn bổng
Mười năm mất mát biết bao người...
 
Mẹ cha khuất núi mấy thu tròn
Vườn táo cô mình đã bốn con
Nhớ thuở hội xuân chèo dóng trống
Xin mình giấy đỏ đánh môi son
 
Nháo nhác đầu hồi chim sẻ kêu
Mưa thưa trắng lạnh nửa ao bèo
Sửa sai câu chuyện với trầu mặn...
Giọng kể cô tôi nặng bóng chiều!
 
. . . .
Đất nước qua bao trận mất còn
Vàng son vẫn vẹn giá vàng son
Cô mừng trẻ lại năm mười tuổi,
Chẳng uổng công mình, xương máu con.
 
Xuân này vui tết lại vui quê
Lại chuyện làm ăn, chuyện hội hè,
Xanh biếc đầu xuân nương mạ sớm
Dậu tầm xuân nở, bướm vàng hoe.
 
Vào đám làng tôi mở trống chèo
Bay cờ, lộng gió, đỏ đuôi nheo
Lớp màn Thị Kính nuôi con mọn
Tôi biết người xem lệ chảy nhiều...
 
Hôm ấy tôi đi nắng ửng vàng
Bời bời ngõ cũ tím hoa xoan:
Xóm giềng tiễn biệt, cô đưa cháu
Đến mãi đầu thôn cạnh giếng làng.
 
Dãy núi Trang Nghiêm nhích lại gần
Trời cao vời vợi một màu xuân
Ta đi, chào núi, ta đi nhé!
Phơi phới tình quê buổi xuất quân...
 
                                Nguyễn Bính

 Trích trong trang “Trong từng câu chữ”

RAU MÁ (蔞䔍) - Bài viết của Khánh Ly


Hình ảnh: Rau má, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ

“Mình về ta chẳng cho về
Nắm tay kéo lại, mình thì ở đây
Rau má là lá lan dây
Đã trót dan díu, ở đây đừng về
Rau má là lá lan thề
Đã trót dan díu đừng về ở đây.”
                                   (Ca dao)

Rau má, chữ Nôm viết 蔞䔍, còn gọi là tích tuyết thảo hay lôi công thảo, danh pháp khoa học là Centella asiatica, thuộc họ Hoa tán (Apiaceae). Loại cây này dễ sống, thường thấy ở những nơi ẩm ướt, râm mát như bờ mương, thung lũng hay đất tơi xốp, phổ biến ở các vùng nhiệt đới châu Á, Australia và đảo Thái Bình Dương.

Thứ Năm, 2 tháng 10, 2025

ĐẤT LÀNH CHIM ĐẬU - Trần Vấn Lệ



Bầy chim sẻ đã về sau hai ngày vắng mặt! Thấy chim là hạnh phúc, ngày mới ơi của tôi!
 
Bạn nghe có thể cười - ai biểu bạn... bỏ bạn!  Năm mươi năm mấy tháng, rồi còn bao nữa đây?
 
Ai "sống mòn" từng ngày chắc như tôi, lẩn thẩn?  Người mình không thù hận... vậy mà tay chia tay!
 
Cái gì nói cũng hay!  Cái gì thấy cũng tủi!  Hay, chưa kịp được nói, tủi buồn... năm mươi năm!
 
Người thành người - Cố Nhân!  Quê thành quê - Cố Quận!  Cầm vạt áo lên thấm... nước mắt trào biển sông... 
 
Sáng nay chim về đông, tôi nhìn chim, nói nhảm!  
 
*
"Chín mươi... sắp gần lắm, quê nhà càng xa xôi!"  Ông Võ Phiến có cười khi cùng tôi nói chuyện...
 
Bây giờ... ông tan biến bình tro trút biển khơi... Bà cũng đã lìa đời, bình tro trôi biển rộng!
 
Việt Nam mình ai sống cũng ngậm cười Thiên Thu!  Tôi ra nghĩa trang chơi... rồi về như chim sẻ!
 
Quê nhà không kịp ghé, tôi - tồi tệ hơn chim... Đất Lành chim bay tìm!  Đất Lành... tôi vĩnh biệt!
 
                                                                                   Trần Vấn Lệ

NGƯỜI ĐI ĐÂU – Thơ Bùi Giáng




 
Bàn chân bước người đi về một thuở
Lá phân vân bờ bến cát sương rung
Trời khuya khoắt phiêu du trăng bỡ ngỡ
Người đi đâu sông nước lạnh vô cùng
 
Bóng trắng xa bay về em có thấy
Cuối phương ngàn rừng núi mộng trong sương
Giòng sông đục giòng xưa sông sóng giậy
Nghe triền miên nức nở lệ lên đường
 
Một tiếng nói một nụ cười chợt tắt
Hết mấy phen buồn trở lại bên đời
Đồng ruộng cũ màu trôi trong cỏ nhặt
Dưới bình minh rạ xám gốc trơ phơi
 
Trời vi vút én liệng vòng hớt hải
Đi đi em nguồn giậy mộng chiêm bao
Về thao thức canh chầy tìm trở lại
Bốn chân trời người đứng ở nơi nao
 
Màu con mắt bên màu xuân xiêu đổ
Ở bên kia nhìn trở lại bên này
Gió lay lắt bốn phương về dồn tụ
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay...
 
 Bùi Giáng

(Theo Trong Từng Câu Chữ)

Thứ Tư, 1 tháng 10, 2025

RUNG CÂY DỌA KHỈ - Đặng Xuân Xuyến



Rung Cây Dọa Khỉ là mưu chước dùng thư từ hoặc bất kỳ một phương tiện nào để mắng mỏ, sỉ nhục, cảnh cáo đối phương hoặc tạo ra những thông tin giả, nhũng nhiễu dư luận để uy hiếp tinh thần, buộc đối phương phải thay đổi ý định. Thực chất của mưu kế này là nhằm làm tăng thêm sức mạnh của mình, trấn áp và hạ gục đối thủ mà không phải tốn nhiều công sức.

ĐỌC BÀI THƠ “QUA PHỔ” CỦA HÀ VŨ GIANG CHÂU - Châu Thạch


Tác giả Hà Vũ Giang Châu


QUA PHỐ
                    
Rảo qua phường phố tìm người                    
Phố hằng vết phố người cười lạ chưa                   
Buồn trong ta mấy cho vừa                     
Đường xưa giờ cũng đã thưa thớt người                    
Chợt nhìn em nở nụ cười                    
Ô hay                    
Sao giống dáng người ngày xưa.
                                    
                                 Hà Vũ Giang Châu
 
ĐỌC BÀI THƠ “QUA PHỔ” CỦA HÀ VŨ GIANG CHÂU
                                                                                          Châu Thạch
 
Nhà thơ Hà Vũ Giang Châu, một tên tuổi của diễn đàn thi ca từ trước năm 1975 cho đến nay tại miền Nam Việt Nam. Dầu tôi có viết thêm về ông bao nhiêu đi nữa thì cũng không thấm gì đối với gia tài văn chương đồ sộ và những bài bình thơ khen tặng trên văn thi đàn, của những cây bút ái mộ thơ ông.
 

TIẾNG QUAN HOẢ 官話 /ku̯an³³ xu̯a²⁴/ - Ưng Chu, Hán-Việt Thông Dụng.



Các bạn nghe đến tiếng Quan hoả chưa? Đây là tên gọi của tiếng Quan thoại Tây Nam được dùng tại một vùng lãnh thổ Trung Quốc tiếp giáp miền núi phía Bắc Việt Nam, như tại Vân Nam
雲南, Tứ Xuyên 四川, Trùng Khánh 重慶, Quý Châu 貴州, Quảng Tây 廣西...
"Quan hoả" là cách đọc từ "Quan thoại" 官話 bằng tiếng Quan thoại Tây Nam /ku̯an³³ xu̯a²⁴/. Vì sự đa dạng về bản ngữ, các cộng đồng ngôn ngữ chung sống tại khu vực kể trên sử dụng tiếng Quan thoại Tây Nam làm ngôn ngữ chung (lingua franca). Tại miền núi phía Bắc Việt Nam gần với biên giới tại Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, tiếng Quan hoả được dùng bởi một số cộng đồng người Hmong (Mông), người Cờ Lao, người Tu Dí... làm ngôn ngữ giao tiếp chung bên cạnh bản ngữ của mình hoặc tiếng Việt. Người thuộc các dân tộc này cũng sinh sống tại các tỉnh nói tiếng Quan hoả ở Trung Quốc.

Thứ Ba, 30 tháng 9, 2025

TRẬN RƯỢU NHỚ ĐỜI! – Đặng Xuân Xuyến

                                (Viết tặng Nguyễn Toàn Thắng)
 
Ảnh: Đặng Xuân Xuyến (bìa phải) và Nguyễn Toàn Thắng (bìa trái)

Một bận, không biết “cú” chuyện gì, Thắng xuống nhà “gạ” lão lên Triệu Việt Vương “nếm” rượu. Lão là thằng thích rượu, khi uống, cứ tì tì chén 1 chén 1; đã uống là phải uống cho đã, phải “tưng tửng” say mới chịu rời bàn. Còn Thắng, thuộc thành phần thêm người cụng chén cho rôm rả nên lão lấy điện thoại, định gọi thêm chiến hữu thì Thắng cản: - “Hôm nay em có chuyện muốn nói với anh. Chỉ anh em mình ngồi với nhau.”. Thấy lạ, nhưng nghĩ chắc cu em muốn tâm sự chuyện gia đình, chuyện học hành, hoặc chuyện yêu đương... nên lão gật đầu.
 

CHẠM THU, MẶC NIỆM SEN, VÔ NGÔN - Thơ Tịnh Bình


    


CHẠM THU
 
Chợt xa rồi khúc giao mùa bảng lảng
Lá mùa thu ẩn hiện sớm mai thơm
Ngày ươm gió mọc đầy trời hoang vắng
Áo vàng thu phơ phất nắng mơ màng
 
Nghe se sẽ dịu dàng hương nội cỏ
Chạm cúc hoa ngỡ màu nhớ tinh khôi
Thu kịp đến trao mùa xưa thinh lặng
Lơ đãng heo may bối rối hương thầm
 
Hong tóc gió trở về mùa thiếu nữ
Hát vu vơ theo bầy sẻ vô tư
Thu lắng đọng thương mùa sen đi vắng
Ru nồng nàn giọt ký ức mềm môi
 
Mưa thánh thót vỗ về đêm lặng
Phố trầm tư tiếng gió mơ hồ
Rưng sắc lá tiễn mùa quá vãng
Lối mờ sương loang vết thu tàn...
 

Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2025

“MÔ NGƯ NHI, NHẠN KHÂU BÀI” BÀI TỪ MÀ LÝ MẠC SẦU HÁT TRONG TRUYỆN “THẦN ĐIÊU HIỆP LỮ - Đông Phương Bá


Hình: Internet

Mô ngư nhi - Nhạn khâu bài từ mà nữ ma đầu Lý Mạc Sầu thường hay đọc trong tác phẩm Thần Điêu Hiệp Lữ.

Ai đọc tiểu thuyết hay coi các bản phim kiếm hiệp chuyển thể từ tiểu thuyết Thần Điêu Hiệp Lữ của cố nhà văn Kim Dung, chắc cũng có ấn tượng về bài thơ của nữ ma đầu Lý Mạc Sầu, vì tình mà tác ác đa đoan. Không ít người thuộc lòng, nhưng chắc không phải ai cũng rõ xuất xứ bài này.

BÙI GIÁNG, GÁI MỘT CON TRÔNG MÒN CON MẮT - Trần Hoàng Vy


Bùi Giáng và Thu Trang

Trong bài thơ Mắt buồn in trong tập Mưa nguồn xuất bản tại Sài Gòn năm 1962, có 2 câu thơ kết đã gây nhiều tranh cãi trong giới văn nghệ sĩ của miền Nam trước 1975 và cả đến bây giờ là: “Bây giờ riêng đối diện tôi/ Còn hai con mắt khóc người một con”.
Người ta thắc mắc với hình ảnh “Còn hai con mắt khóc người một con” là như thế nào? Điều đó có hàm ý gì và ẩn nghĩa ra sao? Có rất nhiều giả thuyết và giai thoại được đem ra giải thích, song có vẽ như chưa thật sự thuyết phục, trừ khi đấy là lời thú nhận từ chính bản thân Trung niên thi sĩ, nếu ngài… sống dậy!

TANG ĐIỀN, TANG HẢI, TANG THƯƠNG - Mỹ Trinh.



Bể dâu” vốn là cách nói vắn tắt của thành ngữ Hán văn “thương hải tang điền” (蒼海桑田), nghĩa là “biển xanh biến thành ruộng dâu”. Điển tích này xuất phát từ “Thần tiên truyện”: tiên nữ Ma Cô từng kể rằng trong khoảng thời gian quen biết Vương Phương Bình, bà đã ba lần chứng kiến biển Đông biến thành ruộng dâu. Ý niệm ấy trở thành một hình ảnh ẩn dụ để chỉ sự biến đổi lớn lao, khôn lường của vũ trụ.
 

Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2025

TÔI CẢM THẤY XẤU HỔ - Khuất Đẩu

"Khi tôi đọc nhẫm một câu thơ, hay một câu nhạc hay; tôi thường nhớ về các ông Tây truyền đạo này với lòng biết ơn đầy kính trọng...".
 
Cha-Alexandre-De-Rhodes

Tôi thực sự cảm thấy xấu hổ! Hơn 300 năm trước, bằng 24 chữ cái và 5 dấu các giáo sĩ dòng Tên và cha Đắc Lộ đã cơ bản ghi lại trên giấy thứ tiếng “hót như chim” của người Việt.
Đó là cánh cửa thần kỳ mở ra cho cả Đàng Trong và Đàng Ngoài cơ hội tiếp cận với văn minh Âu châu.
 

Thứ Năm, 25 tháng 9, 2025

ĐÊM MÃI THANH XUÂN – Thơ Trần Mai Ngân


    
                                Nguồn ảnh trên google.

Đêm nhen nhúm cháy nồng nàn tình cũ
Của thanh xuân trên miền trắng đôi bờ
Đôi tay níu, bấu riết cõi ơ hờ
Ú ớ gọi tên nhau không tròn tiếng...
 
Đêm bồng lai mênh mang đêm giữ lại
Một đêm nay và chỉ một đêm nay
Ngực căng đầy mùi hương ủ không phai
Nốt son đỏ phập phồng theo nhịp thở...
 
Đêm cứ thế trốn tìm nhau bỡ ngỡ
Trong chập chùng trong mê dại ...trong nhau
Nụ môi hoa xin uống cạn ngọt ngào
Vầng nguyệt khuyết treo cao làm nhân chứng...
 
Vầng nguyệt khuyết treo cao làm nhân chứng !
 
                                                 Trần Mai Ngân

THỦY TẠ 水榭 – Ung Chu



Các công trình xây trên mặt nước hoặc bao quanh là nước thường được gọi là "thuỷ tạ", ở Việt Nam có nhiều nhà hàng thuỷ tạ. Một số người cho rằng "thuỷ tạ" là cách viết sai chính tả, lập luận rằng phải là "thuỷ toạ" với "toạ" nghĩa là ngồi.

Tuy nhiên, "thuỷ tạ" 水榭 là từ lâu đời trong Hán ngữ, tiếng Nhật đọc là "sui-sha" すいしゃ, tiếng Hàn đọc là "su-sa" 수사.

- thuỷ : nước
- tạ : nhà xây trên nền cao (đài, bệ, sàn...), tức là thay vì xây trực tiếp trên mặt đất thì sẽ làm một cái nền nâng lên rồi mới xây, chữ này mang bộ "mộc" (cây gỗ) và kí âm bằng chữ "xạ" .
 
Thôi Thực 崔湜 thời Đường có thơ đề rằng:
 
水榭宜時陟
山樓向晚看
 
Thuỷ tạ nghi thời trắc
Sơn lâu hướng vãn khan
 
Nghĩa là:

Leo lên thuỷ tạ vào thời điểm thích hợp, ngắm nhìn nhà lầu ở núi lúc nhá nhem.
                                                                                           Ung Chu

THỜI GIAN BAY TRÊN PHƯƠNG BẮC – Thơ Trần Vấn Lệ


        

Hình như ai cũng thức / dậy rất trễ sáng nay?
Sương mù trắng ngọn cây và thành phố lành lạnh...
 
Lá vàng rung óng ánh.  Gió nhẹ mang mùi băng
dẫu một chút thoáng ngang, hiểu:  tuyết trên phía Bắc
đang rơi.  Thành phố ngập.  Kỷ niệm bắt đầu buồn?
Ở đó sau mùa sương!  Ở đó đang mùa tuyết!
Đoàn Thị Điểm từng viết:  "Sương như búa bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô!"
 
Chắc chắn có người hô:  "Hoan Hô Trời Đã Lạnh!".
 
*
Sáng nay tôi hiu quạnh:  bạn chưa dậy với mình
Mở máy thấy màn hình mà email không có!
"Em ngủ ngon!  Anh ngó / cái mặt em, mặt trời!
Em thức, nhắc em cười:  Hôn Em Chào Buổi Sáng!"
 
Tóc nàng có sợi trắng. 
Tưổi nàng hay tuyết bay?
 
                                                              Trần Vấn Lệ

KÝ ỨC HÀ NỘI - Chùm thơ Đặng Xuân Xuyến


   

 
VỀ THĂM HÀ NỘI
(Tặng Nguyễn Minh)
 
Tôi xa Hà Nội, xa Hà Nội
Mới đó thôi mà bấy năm trôi
Bạn cũ gặp nhau nhìn rất vội
Nụ cười te tẻ hé trên môi.
 
Ờ gió heo may đã mỏng rồi
Mây chiều cũng ít bảng lảng trôi
Giờ còn ai đợi canh chừng tối
Dụ một tiếng reo thả chỗ ngồi?!
 
Tôi lặng nghe lòng chất vấn tôi
Người ta giờ đã khác xưa rồi
Thời gian thì cứ trôi vồi vội
Tôi lại giam mình góc xa xôi.
 
Tôi biết nhưng mà biết vậy thôi
Chuyện xưa còn giữ được mấy hồi
Tôi về Hà Nội thăm Hà Nội
Mua chút niềm riêng ngủ quên rồi...
 
Hà Nội, ngày 9 tháng 2-2025
 

Thứ Hai, 22 tháng 9, 2025

ĐYNH TRẦM CA, LỤC BÌNH NGỪNG TRỔ BÔNG – Nông Hồng Diệu


Ảnh : Đynh Trầm Ca
 
“Nhánh mù u con bướm vàng không đậu
Câu ca từ thuở thơ dại ru sang
Sông quê, trường làng, con đò trên cát lở
Cũng vì em xa mà thành điệu nhớ não lòng…”
 
Tác giả “Sông quê” nay đã 83 tuổi. Ông đang sống ở quê nhà Quảng Nam sau quãng đời gió bụi. Đynh Trầm Ca đã ngưng sáng tác khoảng 20 năm nay. Phải chăng, với ông, thơ và nhạc cuối cùng chỉ là… phù phiếm?
Đynh Trầm Ca nổi tiếng từ trước 1975 với nhạc phẩm “Ru con tình cũ”:
 
“Ba năm qua em trở thành thiếu phụ
Ngồi ru con ru quên phận buồn…”.
 
“Ru con tình cũ” được Đynh Trầm Ca sáng tác năm 1967 nhưng phải 3 năm sau, 1970, nhạc phẩm mới được phổ biến qua tiếng hát Lệ Thu. Đây cũng được xem như sáng tác đầu tay của Đynh Trầm Ca.
 

HUY HOÀNG (輝煌)- Bài viết của Khánh Ly


Hình ảnh: Huy hoàng (輝煌) -  thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ.

"Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm."
                      (Giục giã, Xuân Diệu)
 
Huy hoàng, chữ Hán viết 輝煌 - một từ gợi lên nét nghĩa rực rỡ, lộng lẫy trong tiếng Việt. Huy hoàng thường được dùng trong đời sống và văn chương, ngoài nét nghĩa rực rỡ thì còn miêu tả thành tựu xuất sắc, thời kỳ vẻ vang hoặc những khoảnh khắc tỏa sáng của con người.
 
Trong đó, Huy có nghĩa là ánh sáng rực rỡ, giống như sách Thuyết Văn Giải Tự chú rằng “Huy, quang dã”, tạm dịch là: Huy, nghĩa là ánh sáng vậy. Chữ này thuộc loại hình thanh, gồm bộ quang biểu ý, gợi đến sự sáng sủa, bao quát mọi nguồn sáng nói chung và chữ quân cho âm. Ngoài huy hoàng, từ quang huy mà ta hay gặp dùng nghĩa của chữ Huy này.
Hoàng cũng có nghĩa là ánh sáng rực rỡ. Đây là chữ hình thanh kiêm hội ý, gồm bộ hỏa biểu ý ánh lửa cháy rực. Chữ hoàng vừa là phần cho âm, vừa tượng trưng cho sự cao quý và rực rỡ của bậc vương giả. Chữ này bổ sung cho chữ Huy sắc thái lộng lẫy, như ánh lửa bùng cháy kiêu sa. 

Thứ Bảy, 20 tháng 9, 2025

O HUẾ XƯA - Thơ Huỳnh Tâm Hoài, Tố Mai phổ nhạc và trình bày

          
             

PHẢN HỒI BÀI VIẾT CỦA NHÀ VĂN UÔNG TRIỀU - Đặng Chương Ngạn

Nguồn:
https://www.facebook.com/dangchuongngan/posts/pfbid02ay8QijCXZPNfxGNgi5uBgjUwTDsxLaxHY46MravQPYggEbfTkLRPb6cnxFHpmXzDl

Nhà văn Đặng Chương Ngạn

Nhà văn Uông Triều vừa đăng một bài viết về tôi: “ÔNG ĐẶNG CHƯƠNG NGẠN ĐẶT ĐIỀU, VU KHỐNG VÀ BỊA ĐẶT”, có nhiều quan điểm sai trái, vu khống và nhầm lẫn. Vì vậy, tôi sao chép về đây để phản hồi từng nội dung một, nhằm làm rõ vấn đề.
Một số người luôn hỏi tại sao tôi viết nhiều như vậy, trong khi gần đây, để bảo vệ việc trao giải thưởng không phù hợp, Báo Văn nghệ liên tục đăng 5 bài viết, và hôm nay nhà văn Uông Triều lại viết tiếp bài mới “Đây là lần cuối cùng tôi nói về những chuyện này”. Dù trước đây, ông ấy đã từng tuyên bố: “Tôi chỉ nói lần này rồi thôi!”

Link bài viết của nhà văn Uông Triều:
https://www.facebook.com/thay.uong.622022/posts/pfbid02GGLutPn4Dvcq3w6aDnhYPPTSpGavfcSeoE9JKAM2TNJxLMnbx1BJvyBZbDF4D2u5l
 

Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2025

CHÙM THƠ QUÊN GIÀ CỦA ÁI NHÂN


  
         ÁI NHÂN
         ĐT: 0984470914
         ĐC: 84 Ngõ 27 Long biên 1, Ngọc lâm, Long biên, Hà nội
         TK: 10524096395016 Tecomban

 
QUÊN GIÀ
 
Ngu ngơ quên lối về già
Đa đoan sang bến đàn bà gạ yêu
Cuộc đời dài ngắn bao nhiêu
Bon chen chi lắm cho nhiều chua cay
 
Si tình ngả ngớn lên say
Bẩy cung chìm nổi mới hay cõi người
Ngây thơ duyên dáng xinh cười
Mà mơ nhặt được những mười ánh trăng
 
Tóc dài, da trắng, tay măng
Hồn âm ỉ lửa đổ xăng cháy bùng
Chiêm bao em hẹn tương phùng
Dắt tay mơ đến tận cùng… cõi yêu

 

THA HƯƠNG HOÀI THUYỀN TRÔI TRONG SƯƠNG – Trần Vấn Lệ

        

Khi mùa Thu tới...em nhìn với anh nha:  Những nhánh lá hiên nhà vì em mà nghiêng xuống!
 
Em à, anh rất muốn hôn em ngay bây giờ... mười ngón tay em Thơ, mười ngón chân em ngọc!
 
Ô hay!  Sao em khóc?  Anh hôn mắt, hết nha!  Những nhánh cây la đà... hôn em từng sợi tóc...
 
Bạn ơn, chữ Hạnh Phúc là Thơ, đó, đọc đi!  Thơ có thể Đường Thi mình đi gặp Tôn Nữ...
 
Mình gặp lại quá khứ, một Lịch Sử Nước Non Hai Bà Trưng Nữ Vương, hai con voi quỳ, đó...
 
Tên Tô Định là cỏ tên Giặc Cỏ của Tàu!  Ông Thi Sách làm sao mà quân mày nỡ giết?
 
Sức mạnh của dân Việt, có thể giờ vẫn chưa!  Trước Mã Viện, ta thua... Ta trầm mình sông Hát!
 
Thương giống dân Hồng Lạc đi lạc mãi... mù sa!  Đồng bào ơi, khóc nha, thương tiếc thời dĩ vãng...
 
Đất Nước mình chỉ sáng khi nó có Mặt Trời!
 
Bao giờ có Mặt Trời?  Đấm ngực đi!  Mà hỏi!  Mà nhớ Trần Dần nói:  "Tôi đi không thấy phố thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ...".
 
*
Khi mùa Thu tới đang ngoài ngõ, anh hôn mình nha, hai bàn chân!  Mình vẫn mùa Xuân xanh mái tóc.  Tha hương hoài, Tình Ơi Mênh Mông! 
 
Em vẫn mùa Xuân xanh mái tóc tha hương hoài thuyền trôi trong sương...
 
                                                                                    Trần Vấn Lệ