BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 18 tháng 8, 2025

CẦN HIỂU ĐÚNG NAM KỲ & NAM BỘ - Tố Ngọc Trần sưu tầm



Không ít người trẻ thời nay được dạy sử kiểu này: "Vua Bảo Đại vào tháng 3/1945 đổi sang gọi Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ vì gọi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ mang tính chất kỳ thị vùng miền" (?). Cái này kêu bằng "giết sử" chớ viết sử gì nổi!
 
Phải nói về danh xưng "ba miền", theo nghĩa địa lý hiện nay (Nam, Trung, Bắc) cho có đầu có đũa cái đã.
Hồi thời vua Lê Thánh Tôn, nước Việt mới tới Phú Yên, nghĩa là chỉ có miền Bắc, và miền Trung dở dang (chưa trọn miền Trung), thành thử không có "ba miền".

Đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Đàng Trong mở rộng đến Cà Mau nhưng hùng cứ một cõi, không ăn nhập với Đàng Ngoài, thành thử cũng không thành "ba miền".
Chỉ sau khi vua Gia Long thống nhứt sơn hà thì lãnh thổ chữ S mới xôm tụ, đề huề gồm đủ Nam / Trung/ Bắc.
 
1808, vua Gia Long định lại bờ cõi mà phân địa giới khu vực: ngoài khu vực kinh thành ở miền trung, chia làm hai miền bắc nam: khu vực phía bắc gọi là "Bắc Thành", khu vực phía Nam gọi là "Gia Định Thành" bao trùm toàn miền nam gồm 5 trấn (Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh, An Giang).

Đến cột mốc "1832" mới thực đáng chú ý hơn.
Chú ý thứ nhứt: Vua Minh Mạng phân ranh địa giới thành các TỈNH, và khái niệm "tỉnh" được xài cho đến hiện nay (không còn xài cách gọi "đạo", "dinh", "trấn"... của bao nhiêu đời xửa xưa gì nữa)! Suốt 187 năm (tính cho đến năm 2019), địa giới mỗi tỉnh mỗi thời - dĩ nhiên - có thay đổi (nhập vào, tách ra, đổi tên gọi búa xua).
 
Chú ý thứ nhì: Dưới thời vua Minh Mạng xuất hiện cách gọi ba miền là Bắc Kỳ, Trung Kỳ (hồi đó gọi tỉ mỉ hơn: Hữu Kỳ, Trực Kỳ nằm nơi kinh đô, và Tả Kỳ - gộp chung lại là "Trung Kỳ"), và Nam Kỳ (toàn miền nam gồm 6 tỉnh, nên quen gọi "Nam Kỳ Lục tỉnh": Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên).
 
Sử sách rõ rành như vậy, vậy mà bây giờ nảy nòi lối viết bừa phứa. Đó, "danh xưng Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ xuất hiện dưới thời Pháp thuộc, cách gọi này mang dấu ấn thuộc địa", viết bừa như vậy mà cũng viết cho bằng được!
 
Tây vào VN, họ định danh ba miền bằng tiếng Tây "Tonkin", "Annam", "Cochinchine", làm gì có miếng tiếng Việt nào ở trỏng! Trong khi đó, người Việt vẫn giữ cách gọi chính thức của tiền nhân chúng ta - bằng tiếng Việt rành rành là "Bắc Kỳ", "Trung Kỳ", "Nam Kỳ" - suốt hơn một thế kỷ, từ năm 1832 đến năm 1945.
 
Viết sử sai bét như trên, của ông bà mình đem gán cho Tây, cầm bằng GIẾT SỬ chớ còn gì nữa!
Giết kiểu sau đây còn ghê hơn nữa: "Vua Bảo Đại vào tháng 3/1945 đổi sang gọi Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ vì gọi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ mang tính chất kỳ thị vùng miền" (?).
 
Cách gọi Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ là do tiền nhân triều Nguyễn đặt ra, nói vua Bảo Đại "bỏ đi vì nó mang tính kỳ thị vùng miền" thì có khác nào vua Bảo Đại chửi tông tổ chính mình? Cái này gọi là chiêu trò "gắp lửa bỏ tay người"!
 
Theo hồi ký của cụ Trần Trọng Kim, vua Bảo Đại vào tháng 3/1945 có đổi sang gọi "Bộ" thay vì "Kỳ", nhưng không phải với lý do của giới "giết sử" bịa ra.
Nhựt Bổn sau khi đảo chính Pháp, cầm trịch, và nghe nói thống sứ Nhựt Nashimura là người đổi CÁCH GỌI TRUYỀN THỐNG "Kỳ (Bắc, Trung, Nam)" của người Việt sang cách gọi "Bộ (Bắc, Trung, Nam)" hết ráo.
Người Nhựt, sau đó, chấp thuận cho vua Bảo Đại tuyên cáo độc lập và thành lập chánh phủ riêng của người VN (tức chánh phủ Trần Trọng Kim). Chánh phủ của vua Bảo Đại vuốt mặt cũng phải nể mũi, tạm thời không đổi "Bộ" trở lại thành "Kỳ" của tiền nhân, trong khi đó dồn công sức thực hiện một số cải cách, chẳng hạn, trong giáo dục...
 
Chánh phủ này chỉ hiện hữu mấy tháng ngắn ngủi, rồi dứt. Nhà nước VNDCCH, sau đó, sử dụng cách gọi "Bộ", nghe riết thành quen.
 
Quen đến mức nhiều người thời nay cứ tưởng "Nam Bộ" là cách gọi ... có từ thuở mở cõi miền Nam. Tưởng vậy là tưởng bở. Hai chữ "Nam Bộ" xuất hiện mới được mấy chục năm thôi giữa dòng lịch sử dài hơn ba trăm năm của đất phương Nam (với nhiều tên gọi về vùng đất này, trong đó danh xưng "Nam Kỳ lục tỉnh" có tuổi đời cách đây 187 năm, gần hai thế kỷ rồi đa).
 
Thành thử nếu viết: "Nguyễn Đình Chiểu viết Lục Vân Tiên phản ảnh khí chất con người Nam Bộ lúc bấy giờ", xét thiệt nghiêm túc thì câu viết như vậy là... trật. Cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu sống khôn thác thiêng, nếu cụ thử ghé về dương gian ắt cụ phải giật mình, "Bây viết Nam Bộ là cái giống gì? Thuở sanh tiền, ta chớ hề nghe nói tới chữ đó. Nó ... nằm ở đâu?". Nên nhớ: cụ đồ Chiểu qua đời năm 1888, bấy giờ là Nam Kỳ, mãi 57 năm sau mới nảy nòi ra tên gọi "Nam Bộ".
 
Viết cho đàng hoàng, cho tử tế, nên là: "Nguyễn Đình Chiểu viết Lục Vân Tiên phản ảnh khí chất con người NAM KỲ lục tỉnh lúc bấy giờ" (rồi chú thích "nay gọi là Nam Bộ").
 
Đặt cách gọi của giới làm chánh trị đời sau trùm lên đầu cách gọi của tiền nhân, có khác nào con đẻ ra cha, cháu đẻ ra ông!
 
                                             Theo nguồn: Facebooker Lê Văn Quý.
                                                          Tố Ngọc Trần sưu tầm

NGỌN CỎ GIÓ ĐÙA - Trần Vấn Lệ



Mặt trời hồi tối ngủ chắc không ngon giấc đâu... Năm giờ sáng bụi lau trắng một màu hoa nở...
 
Rồi hoa hồng, hoa huệ... tiếp theo, nở tiếp theo!  Chắc hoa sợ buổi chiều đến nhanh như buổi sáng?
 
Người người còn ngủ nán...giống Hàn Mạc Tử chăng?  Không tiếng thơ ngâm tràn, không chim nào vỗ cánh! (*).
 
Nước Mỹ vẫn kiêu hãnh:  "Tao khác Quê Hương mày!".  Kìa nó dang hai tay, kia nó tập thể dục...
 
Nó gặp ai cũng Good...Và người ta đáp thôi... Ngày chớp mắt đã vui!  Người thì... chạy tại chỗ! 
 
Mười lăm phút đáng nhớ!  Mười lăm phút một ngày!  Đời thật vui lắm thay, chia tay còn ríu rít!
 
*
Tôi đứng thở và hít không khí thơ của tôi.  Tôi nhận những nụ cười và cho lại, không giữ...
 
Hoa hồng nở, hoa huệ nở, không phải của riêng ai!  Chỉ ngày ngắn hay dài ai nghĩ sao cứ nghĩ...
 
Hai mươi mốt Thế Kỷ, một chuyến tàu tốc hành.  Đang chuyển động là nhanh.  Đứng yên là lùi lại...
 
Nước non mình đang vậy và đã vậy lâu nay!  Mỗi giọt nắng trên tay... té ra là nước mắt!
 
Người mình xây tượng thật... mà tác giả... ngộ heng!  Tôi chưa nghe ai khuyên "Tác Giả Nên Tác Thật!".
 
Tôi chỉ biết ông Phật:  "Phật không tu trong Chùa!".  Chuyện hôm qua buồn cười:  "Chùa Điều Ngự Sự Cố".
 
Sáng sớm tôi nhìn cỏ:  Cỏ mơn man gió đùa!
 
                                                                                      Trần Vấn Lệ
(*) Thơ Hàn Mạc Tử:
    "Nằm gắng cũng không thành mộng được,
    Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi!"

DÁNG KIỀU – Thơ Lê Kim Thượng


    
 
1.
Em sang khoe dáng người yêu
Chân son bước nhẹ, dáng Kiều thướt tha
Con đường nhỏ, bước chân qua
Em đi lối cỏ, đường hoa trắng ngần
Hoa Xoan nở tím mùa xuân
Áo em tím đậm bâng khuâng trong lòng
Gió Nồm thổi nhẹ trên đồng
Nắng qua kẽ lá, má hồng hây hây
Mùa xuân em hỡi có hay
Đỏ trời hoa Gạo, đắm say chúng mình
Vườn yêu nắng sáng lung linh
Đôi ta chung bước đậm tình tinh khôi
Bên tôi, em thủ thỉ lời
“Mình yêu nhau mãi suốt đời nghe anh
Đã thương, thương hết lòng mình
Qua bao năm tháng, cuộc tình vẫn nguyên…”
 

NGUYỄN QUANG LẬP VIẾT VỀ TỐ HỮU



Một hôm mình đọc bài của Nguyễn Quang Thiều viết về Tố Hữu, thấy nó viết hay kinh. Những chuyện nó kể mình đều biết cả nhưng chưa bao giờ dám viết ra. Thế mà nó viết ngon trớt, đọc nghe êm ru, lại còn cảm động nữa.  Đọc bài nó xong, mình ngồi thừ, thấy tiếc. Thằng Thiều cũng gặp Tố Hữu loáng thoáng như mình thôi, thậm chí chẳng bằng mình thế mà nó có bài ngon lành, còn mình thì không. Mình cú, định viết bài đấu lại nó, nhưng lại nghĩ xưa ông sống thì không viết, giờ ông chết rồi có viết kiểu gì người ta cũng cho mình nói phét, nên thôi. Nhưng sáng nay tự nhiên muốn viết về ông quá, định bụng 5,6 giờ chiều mới viết, nhưng mót viết chịu không nổi. Thế là víêt luôn.
 

VỤ ÁN VU KHỐNG BẢN QUYỀN THƠ - Võ Đắc Danh


Nhà báo Võ Đắc Danh

Xưa nay trong thiên hạ thường xảy ra chuyện ăn cắp bản quyền trong thơ văn, nhưng tôi có lần bị dính vào một chuyện ngược đời, đó là bị vu khống tác quyền.
Cả đời tôi chưa bao giờ làm nổi một câu thơ, vậy mà có lần tôi "bị" nổi tiếng với một bài thơ. Đó là giữa năm 2008, trên mạng Yahoo 360 xuất hiện và lan truyền một bài thơ của Võ Đắc Danh:
 

Thứ Ba, 12 tháng 8, 2025

20 BÀI LỤC BÁT 4 CÂU - Chùm thơ Đặng Xuân Xuyến


    


NGẨN NGƠ TIẾNG CHIỀU
 
Ờ kìa... chênh chếch mái đình
Hoa xoan rụng tím tiếng Kinh giữa chiều
Nắng dồn về bóng đổ xiêu
Lẩn trong gió lạ tiếng chiều ngẩn ngơ.
Hà Nội, chiều 15 tháng 4-2025
 
 
LẠC ĐÊM
 
Xin dừng chuốc rượu chài môi
Cữ này đã đủ mấy hồi quậy đêm
Cũng đừng nhấp nhổm gì thêm
Chỉ là lạc trận gió mềm, sẩy chân.
Làng Tám, đêm 30 tháng 10-2024
 
 
NGÀY VỀ
 
Ngày về, mưa phủ lắt lay
Đò chiều dời bến đã thay chủ chèo
Bến đông, giờ chỉ lèo tèo
Lạc cơn gió lạ thổi vèo lá bay.
Làng Tám, ngày 3 tháng 7/2024
 

ĐỜI C' EST LA VIE – Thơ Trần Vấn Lệ


 

Khi hoa nở buổi sáng
rồi buổi chiều nó tàn
tên nó:  Hoa Phù Dung
và người ta cười nhạt!
 
Khi mây hiện núi Bắc
gió thổi về hướng Tây,
đường xa mây bớt dày
thành Phù Vân, hết thấy!
 
Cái chữ Phù, hay nhỉ
như Phù Thịnh, Phù Suy
theo thời thế thì tùy...
có Tùy Cơ Ứng Biến!
 
Có người cầm báo liệng
vào thùng rác không thương
ổng nói Báo toàn buồn
toàn chuyện xe cán chó!
 
*
Có người, mặt nhăn nhó
vuốt cái thành Dung Nhan!
Ngắm nghía mình trong gương
hài lòng về tất cả...
 
Tôi nâng niu chiếc lá
Lá của cây Bồ Đề
Tôi thấy mình đê mê,
Tôi thấy mình là Phật!
 
Dang tay, nào ai bắt
được nhỉ áng Phù Vân?
 
               Trần Vấn Lệ

KHU VƯỜN KÝ ỨC - Thơ Tịnh Bình


   
 

KHU VƯỜN KÝ ỨC
 
Trong khu vườn hoài niệm mùa ấu thơ
Nơi ô cửa sổ
Mở ra những sớm mai
Chíu chít bầy chim sẻ ngậm về hạt nắng
Tưới tẩm những non xanh
 
Bay lên từ gác bếp
Chòng chành sợi khói
Ủ mùi khét nắng lên tóc bà tóc mẹ
Rau đắng đất sau hè
Ai có còn thương ?
 
Bảng lảng hoàng hôn
Tiếng trẻ ngây thơ gọi cánh diều chấp chới
Cỗ xe bò đi về trầm mặc
Trĩu nặng mùa vàng rực rỡ phía sau lưng
 
Những sớm mai lặng im
Tự ngắm mình giữa muôn trùng hồi tưởng
 
Chợt thảng thốt tiếng chim trên cao
Trong chiếc lồng hồi ức
Khu vườn... tan biến những non xanh...
 
                                           Tịnh Bình

CHU VƯƠNG MIỆN VỚI NIỀM KHẮC KHOẢI TÂM LINH - Tạp văn Nguyễn Nguyên An


Nhà thơ Chu Vương Miện
 
Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng – Vancouver – Canada vừa viết trên Tạp chí Sông Hương số 246 (2009) Mục Tác giả tác phẩm và dư luận: “Khoảng từ năm 1970, xuất hiện nhiều tác giả trẻ, một số mặc áo lính, trên các báo, nhất là ở các địa phương. Một số chưa có thời gian để in tác phẩm của mình. Tôi nhớ những tên tuổi như Y Uyên, Ngô Kha, Luân Hoán, Trần Hoài Thư, Trần Dzạ Lữ, Chu Vương Miện… Bắt  đầu thành một dòng chảy khác, mà người chinh phục tôi nhất là Phan Nhật Nam.”. Với riêng tôi, tôi yêu Ngô Kha & Chu Vương Miện (CVM).
 
CVM tên thật là Nguyễn Văn Thưởng, sinh năm 1941 tại Kiến An (miền Bắc), anh cầm bút từ những năm 1960, thơ anh đã đăng trên nhiều Tạp chí tại Sài Gòn: Thời Nay, Bách Khoa, Văn Học, Tiền Phong. Trước 1975, đã có 5 tác phẩm được ấn hành:
 
Đêm đen 20 tuổi (thơ) 1964
Tiếng hát Việt Nam (thơ) 1965
Trường Ca Việt Nam (thơ) 1967
Lời Phản Kháng (thơ) 1967
Phía Mặt Trời Mọc (tập truyện) 1969
 
Được ghi tên trong từ điển văn học của Thanh Tùng, Khai Trí xuất bản năm 1973 tại Sài Gòn. Ra hải ngoại anh tiếp tục viết thêm những tác phẩm:
 
Đất Nước (thơ) 1985
Bằng Hữu (thơ) 1987
Văn Học Dân Gian (truyện) 1988
Tác Phẩm, Tác Giả (biên khảo) 1988
Đất Nước (thơ, tái bản) 1997
Văn Học Dân Gian (thơ, tái bản) 1999
 

Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2025

CÂU ĐỐI GIÁO SƯ VŨ KHIÊU TẶNG TÂN THỦ TƯỚNG NGUYỄN XUÂN PHÚC - Phiếm luận của Vinhhuy Le

Theo VTV, 05/08/2016, "Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tới thăm các nhà khoa học hàng đầu là Giáo sư Hoàng Tụy, Giáo sư Phan Đình Diệu và Giáo sư kiêm Anh hùng Lao động Vũ Khiêu". 


Nhân dịp này, Khiêu lại mần câu đối tặng Phúc:
 
"Tể tướng giáng trần, chí tráng tâm hùng Xuân mãi mãi;
Anh hùng nhập thế, dân an quốc thái Phúc vô biên"
 
TỂ TƯỚNG GIÁNG TRẦN - ANH HÙNG NHẬP THẾ
 
"Tể tướng" đây là ý ông Khiêu suy tôn ngôi vị ông Phúc. Đã đành chức tể tướng xưa tương đương với thủ tướng nay: cùng là người đứng đầu nội các. Hiềm nỗi tể tướng tuy trên muôn người nhưng luôn phải ở dưới và phụng mệnh một người, tức ông vua, thiên tử chí tôn. Có thể biện bác "thiên tử" đây là pháp luật, là nhân dân; song cũng có thể hiểu "thiên tử" tức là... đảng. Nên khi người ta tôn xưng thủ tướng thành "tể tướng" thường hàm ý châm biếm. Thủ tướng tiền nhiệm dẫu nhận mình công bộc của dân nhưng cũng bị đá đểu thành "tể tướng" là lẽ đó.
 

Tuy vậy, "huông" của câu đối này không phải ở từ "tể tướng" mà ở chữ "giáng". Tân thủ tướng vừa tuyên thệ nhậm chức vốn Phó thủ tướng ngoi lên, là THĂNG, nhưng bị ông giáo sư hay chữ lỏng phán thành GIÁNG. Câu đối thù tạc không cần hay ho, chỉ cần nịnh khéo, nhưng có chỗ khó là nhiều kiêng kỵ tinh tế phải tránh lắm nha.
 

Thứ Sáu, 8 tháng 8, 2025

TÌM DẤU VƯỜN XƯA – Đinh Hoa Lư


Nhớ Cam Bình Thôn Tết Đinh Dậu 2017
 
TUỔI GIÀ lãng đãng trôi về như đám mây trời bềnh bồng vô định chúng ta chẳng biết đâu là điểm dừng? Mây trôi như cuộc đời người cho đến lúc nào đó thì đám mây không còn nữa nó sẽ hòa lẫn vào hư không.
 
Có thể giờ đây tôi lòng lại dặn lòng đừng đua chen, lo lắng nữa. Vốn thời gian còn lại- như bạn bè hay nói "chẳng còn hào phóng" cho chúng ta- lớp tuổi về già- nữa. Lòng từng dặn lòng, mình hãy dành những buổi sáng khi ánh dương vừa lên "chào một ngày mới" để ngồi ngắm hoa nở mây trôi, nghe chim hót líu lo trên cành mận nhánh đào cùng vài cánh bướm vàng trắng  chập chờn bay quanh như muốn thăm khóm cải, nhánh bầu cành mướp đang rộ sắc màu vàng, trắng...
 
Thế mà lạ ! tuy "bụng bảo dạ" thế nhưng tâm tôi lại mãi trôi về một khoảng trời xa xăm nào đó? Hình ảnh vườn xưa từng đơm hoa kết trái, thi nhau nở rộ cùng những ước vọng của một thời gian khi sức khỏe còn tràn, chứa chan mong ước. Giờ thì còn đâu lối cũ vườn xưa cho lớp tuổi về chiều nơi đất khách quê người? Thời gian không ai mong muốn trôi nhanh lại "ào ào" chạy đến 'trở tay chẳng kịp'?

TRĂNG TRONG TRUYỆN NGẮN ‘KIM YÊU’ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN – Trịnh Thị Nhâm


Tác giả bài viết Trịnh Thị Nhâm

Một câu chuyện buồn nhưng lại nhắn gửi ta một thông điệp trong cuộc sống đâu phải "Chuyện thường ngày ở huyện" mà ta thường bỏ qua. Hàng ngày ta sống bên cạnh những điều chân thực, giản dị, tốt đẹp, nhưng vì nó quá quen thuộc, quá gần gũi đến mức ta chẳng nhận ra thậm chí coi thường. Chỉ đến khi ta trả giá quá đắt, đánh mất mình vì sự tin yêu mù quáng thần tượng nhưng lại là những giả dối, hào nhoáng hời hợt bên ngoài, ta mới chợt nhận ra đã để vuột mất những điều quý giá vô ngần.
 

VỀ NƠI AN LẠC - Nhạc Đỗ Hải, thơ Quách Như Nguyệt, Ngọc Mỹ trình bày

   
      


VỀ NƠI AN LẠC
 
Tất cả chúng ta
Khi sắp ra đi
Đều mong ước rằng
Ra đi thư thái
Về chốn vĩnh hằng
Vĩnh viễn bình an
 
Đừng chờ đừng đợi
Tu tập bạn ơi!
Vì bạn biết đó
Cái chết không chờ
Thiên đàng không đợi
Chẳng ai biết được
Ngày giờ ra đi
 
Ta phải làm gì
Để có cái chết
Êm ả thảnh thơi
Bình an phơi phới?
 
Theo tôi bạn hỡi..
Nếu biết yêu người
Bố thí muôn nơi
Yêu cây yêu cỏ,
vạn vật muôn hoa
Biết sống chan hòa
Không giận không hờn
Đời sẽ an vui
 
Bớt tham sân si
Làm lành tránh dữ
Bỏ đi nóng tánh
Vị tha hiền lành
Không than không trách
Không oán hận ai
Sống với hiện tại
Làm việc bác ái
Rãi tâm từ bi
Ngày ngày an tịnh
 
Nói dễ làm khó
Cái "tôi" khó bỏ
Tham lam khó từ
Dục ái quấy phá
Người về trong mơ...
 
Vì thế cho nên
Ta chẳng ơ thờ
Chịu khó tinh tấn
Tu tập chuyên cần
Từng bước từng bước
Đến gần Như Lai
 
Sẽ thấy tự tại
Nếu hiểu vô thường
Chịu khó ngồi thiền
Sẽ thấy an nhiên
 
Khi không còn thở
Lên thuyền Bát Nhã
Về được cõi mơ
Bạn an tâm nhá
Không phải sợ hãi
Ra đi nhẹ nhàng!
 
Như Nguyệt
6 tháng 8, 2025

HAI TUẦN SAU KỶ NGUYÊN MỚI – Trần Vấn Lệ



Đã qua Mười Bốn ngày, Kỷ Nguyên Mới Phường Xã... Bạn tôi cười ha hả:  😄 "Đời Cựa Quậy", Vui ghê!".
 
Cái email từ quê gửi cho tôi chừng đó!  Kèm Nụ Cười Hoa Nở, tiếng cười... tưởng tượng thôi!
 
Hai tuần lễ đã trôi / với thuế má nổi nổi... Tôi nhìn đời đắm đuối... Nước Non chắc khác nhiều?
 
Tổng Thống Mỹ hiu hiu / tự đắc mình vĩ đại... bạn tôi vẫn con gái / ngả vai bờ thời gian...
 
Nước Mỹ và Việt Nam / năm mươi năm hết hận, hết tin "lính chết trận"... bây giờ "mình chung lưng!".
 
Tôi nghĩ đến bàn chân, tôi thèm hôn ngón út, tôi thèm cái hạnh phúc... của con người vô tư!
 
Email là bức thư / gừi băng qua không khí!  Tình là tình chung thủy.  Sáng nay... lòng tôi vui!
 
Sáng nay ngó lên trời:  Một trời đầy mộng mị...Cuối rồi đầu Thế Kỷ:  hai trăm năm như mơ!
 
*
Tôi gõ máy bài thơ / gửi về cho Đất Nước... nhớ quân hành bước bước / đêm tối nào thiên thu!
 
Mình là trái mù u / lăn lăn con đường dốc...một là dốc có bậc / hai là dốc đá trơn!...
 
Dốc:  Con Dốc Nhà Làng / giữa Đà Lạt thương nhớ... Năm mươi năm mà ngỡ / đời-một-giấc-chiêm-bao!
 
                                                                                       Trần Vấn Lệ

PLAYLIST VỌNG TÌNH - CD NHỮNG TÌNH KHÚC PHỔ TỪ THƠ NHÃ MY

   
                                                                      Nhà thơ Nhã My


                  

VÔ ƯU – Thơ Lê Kim Thượng


  


VÔ ƯU 
1.
 
Tôi về quê Mẹ bình yên
Hương đồng gió nội, muộn phiền buông rơi
Một đời xa xứ, xa xôi
Thân nơi phố thị, hồn nơi quê nhà
Tôi về tìm lại ngày qua
Chuồn Ngô, chuồn Ớt la đà vườn bông
Con thuyền về tới bến sông
“Gió đưa cây cải…” lên ngồng xanh tươi
Ai về bến nước người ơi
Gieo vần sáu tám, vớt lời ái ân
Câu thơ lục bát bâng khuâng
Trôi theo dòng nước, ngại ngần lênh đênh
Sớm mai, khi mặt trời lên
Một ngày mới đến, bồng bềnh gió Tây
Đôi con chim hót mở ngày
Hừng đông trời tỏa hây hây nắng hồng…
 

Thứ Năm, 7 tháng 8, 2025

CA SĨ DUY TRÁC ĐI CẢI TẠO – Bài phỏng vấn của Trọng Kim



Trọng Kim:
Hồi 30-4-1975, tại sao anh kẹt lại?
 
Duy Trác:
Tôi bị chính quyền Nguyễn Văn Thiệu bắt với tội danh “âm mưu lật đổ chính quyền” (?) và được chính quyền Trần Văn Hương trả tự do vào ngày 27-4-1975. Ra đến bên ngoài, nhìn thấy cả một thành phố đang xôn xao, hoang mang về vấn đề đi ở. Đúng ra, tôi còn dịp tìm được phương tiện ra đi nhưng không may có đứa con út mới được 17 tháng, đang bị đau nặng. Ngày 28-4, Bác sĩ Nguyễn Thế Minh, bạn tôi hiện ở Canada, khuyên tôi nên cho cháu vào bệnh viện ngay vì loại bịnh của cháu có thể có những biến chứng không lường được. Nghĩ rằng cháu sẽ không chịu đựng nổi cuộc hành trình dài trên biển, tôi và gia đình quyết định ở lại và như thế, tôi bắt đầu bước vào một đoạn đời gian khổ.
 

Thứ Hai, 28 tháng 7, 2025

VÀI CẢM XÚC VỚI BÀI THƠ “MEN ĐẮNG" CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN – Nguyễn Thành


Ảnh tác giả Nguyễn Thành

Vô tình đọc được bài thơ hay Men đắng của tác giả Đặng Xuân Xuyến, tôi phải đọc đi, đọc lại vài lần cho chất men ủ 15 năm nó thấu tâm can, luồn vào những ngõ ngách của quá khứ với những trắng đen của nhân tình thế thái lắng tận đáy lòng rồi bật ra những rung cảm cùng với những cảm xúc mà trong đó có một chút xót xa, một chút nuối tiếc, một chút ngậm ngùi chua chát… và những cảm xúc đó trộn lại biến thành những nỗi đau của chính mình để ta có thể thấu hiểu được nỗi đau của tác giả đã trải vào trong thơ.
 
MEN ĐẮNG
 
Đây men rượu hơn 15 năm trước
Chót nhấp môi ta trượt bước xuống bùn
Ngoái đầu nhìn vẫn hồn lạc chân run
Thon thót sợ vô tình gặp lại.
 
Ừ ly nữa. Cớ chi phải ngại
Ta cứ say. Mặc thiên hạ phỉnh lừa
Cạn ly này có quên được chuyện xưa?
Đau thương đấy đến ngày nào lành sẹo?
 
 
Ừ thì cứ trách ta bạc bẽo
Cứ rêu rao ta ân ái hững hờ
Quá thật thà ta ra kẻ ngu ngơ
Ngớ ngẩn cược đời mình nơi kẻ chợ.
 
Đau. Đau lắm. Lặn ngược dòng lệ rỏ
Trời cao xa dung dưỡng lũ yêu hồ
Cố vẫy vùng thoát xa khỏi chốn nhơ
Ta chết lặng nửa đời không phân tỏ.
 
Ừ ly nữa
Ừ thêm ly nữa
Ừ thì say! Ừ quên quãng sống thừa
Quên bóng tà lẩn khuất phía song thưa
Ta cạn chén đón bình minh trước cửa.
 
           Hà Nội, đêm 10 tháng 12.2016
 

VỀ MỘT TRUYỆN NGẮN VỪA ĐOẠT GIẢI NHÌ CỦA BÁO VĂN NGHỆ (PHẦN III) - Hà Thanh Vân

Bài viết này nhằm để trả lời một số câu hỏi mà bạn bè ngoài giới văn chương hỏi tôi.
 

NHÀ VĂN KHÔNG ĐƠN ĐỘC MÀ NHÀ PHÊ BÌNH MỚI ĐƠN ĐỘC
 
Tôi không muốn viết tiếp để phản biện lại những vấn đề do một bài viết ẩn danh được cho là của nhà văn Uông Triều, mà tôi đã kiểm tra và có kết quả là bài viết đấy do AI viết. Chẳng lẽ tôi lại mất công phản biện với… trí tuệ nhân tạo?
 
Tuy nhiên, cái dở, yếu, kém của truyện ngắn “Trăm Ngàn” vẫn còn đó, rành rành ở những câu chữ. Do vậy tôi vẫn tiếp tục nói về truyện ngắn này ở phương diện nội dung và nghệ thuật cũng như cách độc giả tiếp nhận tác phẩm này. Tôi cũng không nói về tác giả trên phương diện cá nhân. Đối với tôi, điều quan trọng đối với người viết văn chính là tác phẩm. Tác phẩm là “căn cước văn chương” của họ. Còn chuyện họ có tấm căn cước đó như thế nào, vì sao được tôn vinh, khen ngợi bằng những lời có cánh, được một vài nhà văn bênh vực thì đó là chuyện cá nhân riêng tư giữa họ với nhau. Tôi không để cho những yếu tố đó ảnh hưởng đến cách nhìn nhận về tác phẩm “Trăm Ngàn”.