BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 24 tháng 1, 2024

ĐỌC “BÀI CA CUỐI CÙNG” THƠ TUỆ SỸ - Châu Thạch


      
                       Ảnh Tuệ Sỹ 
               
 
BÀI CA CUỐI CÙNG
 
Chim trời xếp cánh
Hát vu vơ mấy tiếng trong lồng
Nhớ mãi rừng cây thăm thẳm
Ủ tâm tư cho hạt thóc cay nồng
Rát bỏng với nỗi hơn khổ nhục
Nó nhịn ăn
Rồi chết gục
 
Ta đã hát những bài ca phố chợ
Người ăn mày kêu lịch sử đi lui
Chàng tuổi trẻ cụt chân từ chiến địa
Vỗ lề đường đoán mộng tương lai
 
Lộng lẫy chiếc lồng son
Hạt thóc căng nỗi hờn
Giữa tường cao bóng mát
Âm u lời ca khổ nhục
Nó nhịn ăn
Và chết
 
Ta đã hát bài ca của suối
Gã anh hùng bẻ vụn mặt trời
Gọi quỉ sứ từ âm ty kéo dậy
Ngập rừng xanh lấp lánh ma trơi
 
Đêm qua chiêm bao ta thấy máu
Từ sông Ngân đổ xuống cõi người
Bà mẹ xoi tim con thành lỗ
Móc bên trong hạt ngọc sáng ngời
 
Lồng son hạt cơm trắng
Cánh nhỏ run uất hận
Tiếng hát lịm tắt dần
Nó đi về vô tận
 
Nguồn: Tuệ Sỹ, Giấc mơ Trường Sơn, An Tiêm xuất bản, California, 2002
*



         ĐỌC “BÀI CA CUỐI CÙNG” THƠ TUỆ SỸ
                                                                  Châu Thạch
 
Trong bài “Tuệ Sỹ, Thái Độ Của Nhà Sư Nhập Thể”, hòa thương Thích Nguyên Siêu đã viết như sau:
 
“Từ thời lập quốc, từ thủa sơ khai của nước nhà Lạc Việt là thời thái bình, an cư lạc nghiệp, đó là buổi bình minh, là tiếng khóc đầu đời của dân tộc Việt có mặt trên dải đất dấu yêu. Để xây dựng cho giang sơn gấm vóc, bao anh hùng liệt nữ đã tô đậm non sông bằng máu đỏ của thân mình để làm tươi thắm ruộng đồng, mà hôm nay Thầy tiếp nối dòng sông lịch sử ấy, đem nước mát, phù sa phì nhiêu cho dân sinh nhuần đượm. Nhưng nay, thời thanh bình thịnh trị đó đã không còn để Thầy phải viết lên tâm tư qua ‘Bài Ca Cuối Cùng’. “Hình ảnh này là thực trạng của quê hương Việt Nam chúng ta hôm nay. Thầy đã đi từng vỉa hè, góc phố, chứng kiến cảnh trạng đau thương từ muôn người đến muôn vật, từ tình cảm đơn côi đến cái nhìn nhãn quan tổng thể. Thái độ nhập thế không chủ quan, phiến diện mà là tâm trạng đau buồn cho quê hương, dân tộc, ngang qua những hình ảnh xót xa đau đớn. Nỗi đau của dân tộc cũng là nỗi đau của chính mỗi người trong chúng ta. Nỗi đau của người Mẹ mất con, nỗi đau của bà con ruột thịt chia lìa, của cửa mất nhà tan, của một dân tộc bị lưu đày”
 
Thiết nghĩ, trích đoạn lời bình của thượng tọa Thích Nguyên Siêu đã nói đủ ý nghĩa của bài thơ, nay Châu Thạch tôi chỉ xin bàn về nghệ thuật của bài thơ.
 
Vào khổ đầu của bài thơ, Tuệ Sỹ giới thiệu cái chết và nguyên nhân cái chết của con chim trời. Chim bị nhốt trong lồng, nó nhớ khu rừng nó sống tự do, nó nhịn ăn và chết:
 
Chim trời xếp cánh
Hát vu vơ mấy tiếng trong lồng
Nhớ mãi rừng cây thăm thẳm
Ủ tâm tư cho hạt thóc cay nồng
Rát bỏng với nỗi hơn khổ nhục
Nó nhịn ăn
Rồi chết gục
 
Đọc khổ thơ nầy, dễ cho ta nhớ đến bài thơ “Hổ Nhớ Rừng” của Thế Lữ. Con hổ của Thế Lữ cũng bị nhốt trong củi sắt, cũng nhớ rừng nhưng nó gầm nó thét, nó chịu sống trong tủi nhục để hằng ngày nhớ về quá khứ:
 
“Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,”
 
… “Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”
 
Ngược lại với hổ nhớ rừng, chim cũng nhớ rừng nhưng không chịu nhục, chim nhjn ăn để chết. So mức độ của lòng quả cảm thì con chim nhỏ nhoi hơn, yếu đuối hơn ngàn lần con hổ, nhưng lòng quả cảm, sự tự tôn của nó cao hơn hổ rất nhiều. Thơ là người, Tuệ Sỹ lấy cái chết của con chim để bày tỏ chí khí của mình, và nhà thơ đã làm như thế khi ngài đã tuyệt thực, không viết đơn xin ân xá khi nhà nước Cọng Sản buộc ngài làm như thế mới phóng thích ngài. Cũng may, trong trường hợp nầy con chim Tuệ Sỹ đã thắng mà không chết.
 
Khổ đầu của bài thơ viết về con chim, khổ thứ hai của bài thơ tự nhiên viết qua con người, tưởng là lạc đề nhưng không phải lạc đề:
 
Ta đã hát những bài ca phố chợ
Người ăn mày kêu lịch sử đi lui
Chàng tuổi trẻ cụt chân từ chiến địa
Vỗ lề đường đoán mộng tương lai
 
“Ta” ở đây là ai? Bài thơ của Tuệ Sỹ nên “ta” ở đây là Tuệ Sỹ rồi. Thế nhưng ta cũng có thể hiểu là chúng ta, là những con người sống cùng thời với Tuệ Sỹ, những người thấy người ăn mày xuất hiện lại giữa đời, thấy những thương binh cụt chân lê lết trên lề đường.
 
Tại sao nhà thơ viết “Người ăn mày kêu lịch sử đi lui” ? Bời vì nhà thơ đã từng sống một thời đại không có ăn mày. Nay nhà thơ thấy ăn mày xuất hiện lại, làm ngài tưởng như hình ảnh đó đà kêu quá khứ khổ đau xa xăm quay về hiện tại. Tại sao nhà thơ viết “Chàng tuổi trẻ cụt chân từ chiến địa/Vỗ lề đường đoán mộng tương lại”. Đó là ngài muốn nói đến người thương binh của phe thua cuộc, kéo tấm thân lê lết trên lề đường với bàn tay trắng, vỗ lề đường là cử chỉ bức xúc, đoán mộng tương lai vì hiện tại đau thương và tương lai mù mịt.
 
Tại sao khổ đầu Tuệ Sỹ viết về con chim mà khổ hai lại viết về con người? Tại vì nhà thơ muốn ám chỉ con chim chính là con người hay chính là mình, là Tuệ Sỹ. Tuệ Sy đã “Ta đã hát những bài thơ phố chợ” nghĩa là đã tố cáo những hình ảnh không đẹp giữa đời nên đã bị bắt nhốt vào tù như thân phận con chim kia bị nhốt vào lồng.
 
Qua khổ thơ thứ ba nhà thơ không viết về chim, không viết về người mà viết về huyễn mông:
 
Đêm qua chiêm bao ta thấy máu
Từ sông Ngân đổ xuống cõi người
Bà mẹ xoi tim con thành lỗ
Móc bên trong hạt ngọc sáng ngời
 
Đêm qua nhà thơ nằm mơ thấy máu, nhưng máu đó không phải do con người chém giết nhau trên đất, mà là máu “Từ sông Ngân đổ xuống cõi người”. Tại sao? Hai câu thơ nầy nhà thơ muốn nói đến nghiệp, đến nhân quả mà “cõi người” phải gánh chịu. “Cõi người” đã gieo nhân gì thì “cõi người” nhận quả ấy. Với đức độ của một Thiền Sư, Tuệ Sỹ không nói đến hận thù, không tố cáo ai gây tội ác, không khuyến khích báo oán mà ngài thức tỉnh con người bằng giáo lý cao siêu của Phật pháp. Ngài chỉ cho thấy “cõi người” gieo nhân thì gặt quả để “cõi người” tự thức tỉnh.
 
“Bà mẹ moi tim con thành lỗ/ Móc bên trong hạt ngọc sáng ngời” nghĩa là sao và bà mẹ là ai? Tất nhiên ta nghĩ ngay bà mẹ là mẹ Việt Nam, bà mẹ ấy không moi lồng ngực con mình mà moi ngay quả tim con mình để lấy ra hạt ngọc sáng ngời. Trong hai câu thơ nầy nhà thơ muốn nói trong mọi trái tim con của mẹ đều có hạt ngọc sáng ngời. Đứa nào chết, mẹ lấy hạt ngọc giữ lại trên tay mình, hay đúng hơn mẹ giữ nguyên truyền thống tốt đẹp đời đời, dầu cho có một thế hệ con mẹ suy đồi nhưng viên ngọc trên tay mẹ vẫn còn thì tương lai còn hy vọng . Ý cả khổ thơ hình như nhà thơ muốn “cõi người” hãy nhận viên ngọc của mẹ Việt Nam mà thức tỉnh làm điều lành tránh điều ác.
 
Ở khổ thơ cuối cùng Tuê Sỹ cho con chim chết bên hạt cơm trắng, nghĩa là nó chết vì mất tự do chớ không phải vì đói. Khổ thơ muốn nói quyền tự do quý hơn sự sống. Con chim lịm tắt dần trong tiếng hát của mình, đó là tiếng hát tôn vinh quyền tự do. Cái chết của chim thật là bất công, ai oán nhưng là một cái chết quật cường để được tự do cho “Nó bay về vô tận”:
 
Lồng son hạt cơm trắng
Cánh nhỏ run uất hận
Tiếng hát lịm tắt dần
Nó đi về vô tận
 
Cuối cùng, “Bài Ca Cuối Cùng” là cuối cùng của con chim bị nhốt trong lồng. Cái chết của chim là cái chết của con người bất khuất, đấu tranh cho tự do. Cái chết đó trao cho mẹ Việt Nam viên ngọc sáng ngời, viên ngọc đó nằm trên tay mẹ sẽ không chết bao giờ, là sự bắt đầu của hứa hẹn một tương lai ngọc trong tay mẹ sẽ thay đổi “cõi người” trở nên tốt đẹp hơn!                                
                                                                                       Châu Thạch

Không có nhận xét nào: