BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 21 tháng 1, 2019

NĂM HỢI BÀN VỀ HEO / LỢN (1) - Nguyên Lạc


       

          NĂM HỢI BÀN VỀ HEO / LỢN (1)
                                                      Nguyên Lạc 

PHẦN I 

HEO: BIỂU TƯỢNG, CA DAO TỤC NGỮ

VÀI ĐIỀU VỀ CHỮ HEO / LỢN
Tên gọi: Lợn, heo, trư, hợi, ỉn, thỉ...
Danh pháp khoa học là Sus, thuộc họ Lợn (Suidae)
Việt Nam phân biệt các loại heo -lợn như: Lợn lòi (lợn rừng), lợn sề (lợn đẻ nhiều lần), lợn nái (lợn nuôi để đẻ), lợn sữa (lợn con còn bú sữa mẹ), lợn bột (lợn mới lớn nhưng còn non), lợn tháu (lợn nói nhiều), lợn cấn (lợn đực nuôi làm giống), heo lang (heo đen có xen đốm trắng), heo voi (heo nhà loại lớn con), heo bông (heo đốm đen trắng lẫn lộn), heo nưa (heo vàng mỡ).v.v..

1. Ý nghĩa biểu tượng
Con lợn hay con heo là loài vật đã gắn bó lâu đời với con người và xung quanh đó là nhiều câu chuyện trong văn hóa đại chúng về con lợn. Trong văn hóa, con lợn cũng được cọi với nhiều tên như con heo, chú ỉn, trư, hợi. Trong văn hóa phương Đông, lợn đứng cuối cùng trong 12 con giáp (Hợi) và cũng đứng cuối cùng trong lục súc.
Lợn biểu trưng cho sự phồn thực, tính dục và sự nhàn nhã sung túc. Người ta còn dùng hình ảnh con heo đất như là một biểu tượng về tài chính. Ngoài ra, thủ lợn (đầu heo) là một món sính vật quan trọng trong một mâm cúng ở những buổi lễ long trọng và lễ nghi của người dân Việt Nam.
Tuy nhiên, đối với Việt Nam, dù được xem là biểu tượng của sự may mắn và trù phú như thế, con heo trong dân gian Việt Nam cũng mang nhiều hình tượng tiêu cực:  Nói đến heo là người ta nói đến tính lười biếng (lười như heo), ham ăn, bẩn thỉu, và ngu (ngu như heo) ngoài ra còn hình tượng nhục dục (phim con heo).
Trong văn hóa dân gian Việt Nam, con lợn được thể hiện qua các bức tranh dân gian Đông Hồ, hình ảnh con lợn hiện hữu trên tấm lịch tường gia đình để thiể hiện sự sung mãn, phồn thực, vui vẻ hạnh phúc. Con lợn trong quan niệm văn hóa cổ truyền thuộc dòng Âm, ôn hòa nhã nhặn, sinh nở đầy đàn nên yếu tố phồn thực được đề cao trong loại tranh dân gian, chúc tụng năm mới gặp nhiều may mắn, con cháu đông vui, phúc lộc. Bức tranh lợn đàn là biểu tượng của sự sung túc, no đủ, phồn thực.
Trên mình lợn có vòng khoáy Âm - Dương ngý phát triển, sinh sôi nảy nở, bức tranh còn thể hiện con lợn mẹ trắng xóa mắt lim dim lờ đờ, mõm tũm tĩm, năm con lợn con, con xanh, con đỏ, con trắng, con tím lúc nhúc cả dưới chân. Hình ảnh lợn Cấn sắc nét nhất là trên tranh Lợn ăn lá ráy, Nghệ nhân Đông Hồ đã quan sát kỹ con lợn phàm ăn, đang sục mõm vào máng, cành lá ráy như động đậy, ước lệ.
Ở vùng đất thuộc hạ nguồn sông Hậu, người Khmer vẫn cho rằng heo năm móng và heo ba giò là những cốt tinh lang thang của người đầu thai, nếu trong nhà có một con heo như thế thì cũng đồng nghĩa với việc nhà ấy gặp những chuyện tai ương khủng khiếp, lục đục chuyện gia đình và người ta tìm mọi cách để tống khứ. Tại Chùa Dơi còn có tên gọi khác là chùa Mã Tộc [*] ở tỉnh Sóc Trăng, là nơi chốn những con heo đặc biệt này cư ngụ, cả phần xác lẫn phần hồn. Người Khmer rất sợ heo năm móng, heo ba giò, tức là heo có tới năm móng thay vì bốn móng như bình thường. Còn heo ba giò không phải thiếu một giò mà ba giò kia một màu lông, giò còn lại có màu lông khác,  ví d một chân có màu đen, ba chân có màu trắng.
                                                              [Theo Nguyễn Cung Thông]
Tổng hợp tư liệu từ sưu tầm thực tế ở chùa Dơi cho biết về heo năm móng, ba giò như sau:
Bà con người Khmer rất sợ heo năm móng, ba giò (không phải thiếu một giò mà ba giò kia một màu lông, giò còn lại có màu lông khác, 1 đen 3 trắng chẳng hạn. Không rõ dựa vào đâu mà người ta tin rằng, những con heo đó là cốt tinh của người, nó là linh hồn của con người đầu thai. Những người đó vốn gây nhiều tội ác, nên bị đày làm kiếp heo.
Chính vì mang linh hồn của kẻ ác, nên những gia đình nuôi nó sẽ phải gặp tai họa. Người Khmer tin rằng, gia đình nào nuôi phải con heo này thì sẽ gặp bất hạnh, gia đình lục đục, vì bị cốt tinh của con heo quấy phá. Tuy nhiêu, nếu giết heo thì cả nhà sẽ phải đền mạng. Chính vì thế, gia đình nào nuôi phải heo năm móng, ba giò, thì phải nuỗi dưỡng và chăm sóc nó đến già. Khi heo chết, phải mai táng cẩn thận như người, mới mong thoát kiếp nạn.
Rồi cũng từ những gia đình đen đủi nuôi phải heo năm móng, ba giò, đã nghĩ ra phương thức giải hạn cho mình bằng cách đẩy “heo quái thai” cho nhà chùa nuôi. Họ tin rằng, nhà chùa là nơi thích hợp, có thể nâng đỡ linh hồn tội lỗi, bị đày làm kiếp heo. Khi con heo quái thai được nuôi dưỡng, được nghe kinh Phật sám hối thì không phá phách con người nữa và cũng vì thế mà hóa giải được tai họa. Vậy là nhà chùa tự dưng biến thành “nơi nuôi dưỡng heo quái thai”.
                                              (Chuyện ở chùa Dơi - Hai Miệt Vườn)
2. Heo trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt, danh từ “heo” có nghĩa chánh là con heo, hay con lợn. Từ đó người ta thường nói thịt heo, heo quay, heo sữa, heo nái, heo rừng; hay bánh lỗ tai heo, vân vân… Trong thành ngữ Việt Nam chữ “heo” rất thông dụng qua những câu nói bình dân như “nói toạc móng heo”, “ở dơ như heo”, “mập như heo”, “làm biếng như heo”, thậm chí “ngu như heo” (nói chung bao nhiêu cái xấu trên đời đều đổ lên đầu con vật hiền lành và tội nghiệp nầy!). Trong tiếng Mỹ cũng có những thành ngữ thông dụng như “to make a pig of oneself” (ăn phàm, ăn tham, ăn uống thô tục như heo), “to buy a pig in a poke” (mua vật gì mà không được trông thấy hay biết rõ, tiếng Việt mình hay nói là “mua trâu vẽ bóng”), hay “pigs might fly” (biết đâu một chuyện thần kỳ hay phép màu có thể xảy ra)
-- Heo: Diễn tả khí hậu hanh khô, thường vào dịp chuyển tiếp giữa thu sang đông.
 “Gió heo lành lạnh thổi về
 Thương người quan ải lòng tê tái sầu”
                                              [Ca dao]
 “Heo đường leo lên ngọn” 
                          [Tục ngữ]
-- Heo may: Dịch thoát chữ "Lý Phong", nghĩa là: "Gió cá chép". Theo truyền thuyết, vào mùa thu, cá chép theo nước sông về hội ở Vũ Môn để chuẩn bị hóa thành rồng. Gió vào mùa này gọi là "Gió cá chép".
 Tháng tư cá đi ăn thề,
 Tháng tám cá về hội ở Vũ môn”
Trong văn chương và nhất là âm nhạc Việt Nam chúng ta thường nghe “gió heo may”:
 "Gíó heo may đã về, chiều tím loang vĩa hè, và gió buông tóc thề...”
                               [Nhìn Những Mùa Thu Đi – Trịnh Công Sơn]
hay:
 “Lạnh lùng sương rơi heo may,
 Buồn se sắt nhớ thu xưa,
 Tôi nhớ em chiều gió mưa…” 
[Thu Ca - Phạm Mạnh Cương]
-- Heo hút: Hẻo lánh và hiu quạnh. "Đi xuống lũng sâu heo hút" [Huy Cận]. Chữ nầy đồng nghĩa với“đèo heo hút gió”. Tuy nhiên trong đối thoại thực tế người ta hay nói “Ở nơi đèo heo hút gió”, chít ai nói “Ở nơi heo hút”.
-- Heo hắt (desolate): Cảnh vật heo hắt (hoang tàn, tiêu điều). Sống cuộc đời heo hắt (cô độc).
Chữ “heo” sử dụng trong heo heo, heo may, heo hút, heo hắt hoàn toàn không có một sự tương quan (correlation) nào với “con heo” cả. Đây chính là một trong những tính cách đa dạng và phong phú của tiếng Việt: Chỉ cần đổi một con dấu, hay x dụng trong trường hợp khác nhau thì ý nghĩa của nó hoàn toàn thay đổi.  
                                     [Heo May - Trung Tâm Việt Ngữ Văn Lang]
Chữ Việt tuyệt với như ta vừa xét vậy mà có ngài tiến (hay lùi) sĩ Bùi Hiền đòi thay đổi nó bằng loại chữ "trời ơi" nào đó, ngu chưa?
-- Kinh nghiệm xã hội và truyền thống dân tộc ta gắn liền với hình ảnh con lợn qua ca dao tục ngữ như:
‘Mẹ em tham thúng xôi chiêm
Tham con lợn béo tham tiền hoa-viên’
                 (Việt Nam Tự Điển, 1954)
‘Con lợn trắng mắt thì nuôi
Con người trắng mắt là người bỏ đi’
"Nói toạc móng heo": Làm mất cái vỏ bề ngoài, làm rõ cái bên trong.

3. Phát âm Heo trong tiếng Anh
Heo là tiếng Việt, phát âm nghe giống tiếng Anh “hell”
Hell (noun): Địa ngục.
Thơ rằng:
Chữ heo liền với chữ "hell" một vần
Hãy ăn đi lũ quan ôn!
Ăn cho tàn mạc nước non dân nghèo
Ăn đi rồi chết xuống "hell"!
                      (Nguyên Lạc) 
...
[Còn tiếp phần II -HEO: TRONG ĐỜI SỐNG, VĂN CHƯƠNG]

                                                                                 Nguyên Lạc 
..................

Tham khảo:
Thảo Trường, Chu Vương Miện, Nguyễn Viết Tân, Nguyễn Cung Thông, Lý Lạc Long, Wikipedia, Trung Tâm Việt Ngữ Văn Lang, Wikipedia, Facebook...

Ghi chú:
[*] Mã Tộc đọc trại từ Mahatup: Mahatup là trận kháng cự lớn (Tup: kháng cự; Maha: lớn). Theo người Khmer, nơi đây đã diễn ra một trận đánh ác liệt của phong trào nông dân nổi dậy chống nhà cầm quyền ngày xưa. Ngoài ra dân gian còn gọi là chùa Dơi bởi vì trong chùa này có nhiều dơi.
                                                                                   (Nguyên Lạc)

Không có nhận xét nào: