BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 10 tháng 10, 2025

HAI NGÀY TRÔI QUA LẶNG LẼ - Trần Vấn Lệ



Hai ngày trôi qua lặng lẽ...Mùa Thu yêu quý chưa về!  Tưởng tượng trời mưa lê thê, gạt tay... chỉ là nước mắt?
 
Mùa Thu, mùa yêu thương nhất.  Mùa của đám cưới hàng năm... Có lẽ người ta nghĩ rằng:  Hôn trong ngày lạnh mới ấm?
 
... cho nên dù xa muôn dặm, đẹp như tiểu thuyết:  Thư Tình.  Tôi chờ một cánh thư xanh, với mình, bây giờ không có...
 
... kể cả thư các em nhỏ, xưa - xưa lắm, học trò.  Các em giống như giấc mơ, nhỏ hơn Thầy đâu mấy tuổi!
 
Tôi đang chờ Thu, tôi nói, vụn vằn, vụng về... ghép chữ thành Thơ!  Tôi thích làm Thơ Tự Do.  Tôi thích "không gì ràng buộc"... giống như lời hứa "bị nuốt" thì thôi... chuyện của chuyện đời!
 
Bạn tôi Chicago xa xôi nhắn về Cali nói lạnh.  "Mà tại vì em muốn tránh gặp anh nóng lắm nụ hôn!".
 
*
Hơi thở của tôi mãi còn để tôi sống nhờ câu đó!
Chicago - Los Angeles... cách xa nhau bởi gió và hoa và cỏ đường sương!  Tình Yêu không ai cô đơn!  Chiếu giường Tình Yêu là chữ... Tình Yêu quà trao nhiều thứ... Xa nhau một bước là buồn!
 
Đang nắng!  Nắng như nước tuôn chảy luồn từng con đường phố.  Mùa Thu ở đây... dưới hố.  Tôi nhìn.  Tôi thấy Quê Hương một Xã Hội Buồn Khôn Tả!  Tôi nghĩ là tôi nói quá những gì báo chí đang đăng... Tôi nghĩ tôi-không-nhân-văn!  Hai chữ Nhân Văn ngộ há?
 
Mai tôi đề thơ trên lá...
Thu vàng rơi đi lá Thu!
                                                                                    Trần Vấn Lệ

HAI BÀI THƠ ĐẠO - Châu Thạch


   
                   Tác giả Châu Thạch


TRÊN ĐỈNH SIN SUỐI HỒ
 
Đỉnh núi cao hơn trên đỉnh mây
Bài tôn vinh Chúa thật là hay
Cả bản H'Mong đều nên thánh
Một góc Thiên Đàng ngay chốn đây
 
Tôi đã cùng em đến một ngày
Rừng thiên nước độc lại lành thay
Tưởng đâu như có nhiều thiên sứ
Đi lại trên trời như bướm bay
 
Mới biết niềm tin hạnh phúc thay
Đại ngàn bình tịnh ánh trăng đầy
Mặt trời qua núi như ru võng
Đêm ngủ cùng ta giấc mộng say!
 

TÌNH ĐẤT – Thơ Lê Kim Thượng


   

 
Tình Đất   
 
1.
Đường về xa lắm người ơi
Quê hương hai tiếng gọi mời trong anh…
Cổng làng đã phủ rêu xanh
Đón người ngày ấy đã thành…  Người xưa
Sông dài biết mấy đò đưa
Thương đời Cha Mẹ nắng mưa dãi dầu
Sông xưa giờ đã bắc cầu
Bâng khuâng nhung nhớ một câu gọi đò
Đất cằn sỏi đá âu lo
Gom tùng hạt thóc đắn đo vụ mùa
Bến sông sóng vỗ gió đùa
Lời ru Đất Mẹ sớm trưa nặng tình
Chợ quê họp cạnh sân đình
Quà quê thấm đậm nghĩa tình chân quê
Trăm năm một cõi đi về
Người trăm năm vẫn bộn bề truân chuyên…

Thứ Năm, 9 tháng 10, 2025

GIẾNG LÀNG – Thơ Bàng Bá Lân


 

Hẹn nhau bên bờ giếng,
Chờ nhau lúc rạng trăng,
Nàng vân vê dải yếm,
Chàng nắn sửa vành khăn.
 
Dưới trăng nàng bối rối,
Dưới trăng chàng băn khoăn,
Nhìn nhau mà chẳng nói,
Bốn mắt đọng trăng rằm...
 
Hẹn nhau bên bờ giếng,
Chờ nhau lúc rạng trăng.
Trăng đến, nàng không đến,
Chàng lo buồn đăm đăm.
 
Nàng đã đi làng khác,
Theo một người khăn đen,
Không còn nghe giọng hát,
Bên đình lúc nguyệt lên.
 
Ai cúi mình trên giếng?
Ai thả gầu múc trăng?
Ai cười yêu nửa miệng?
Tan rồi mộng gối chăn!
 
Không hẹn bên bờ giếng,
Không chờ lúc rạng trăng,
Đêm đêm chàng vẫn đến
Bên giếng khóc âm thầm...
 
Đêm nay chàng lại đến
Bên giếng khóc âm thầm,
Bỗng gặp bên bờ giếng
Đôi bóng người dưới trăng.
 
Nàng cũng vê dải yếm,
Chàng cũng nắn vành khăn.
Cũng nhìn nhau âu yếm,
Bốn mắt đọng trăng rằm.
 
Giếng trăng, nơi hò hẹn,
Giếng trăng, nơi hẹn hò,
Từ xa xưa đến bây giờ
Giếng làng ghi dấu bao trò hợp tan!
 
                                   Bàng Bá Lân

Thứ Hai, 6 tháng 10, 2025

NGHÊ THƯỜNG 霓裳 - Bài viết của Mỹ Trinh


Hình ảnh: Nghê thường, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ

“Nghê thường”, chữ Hán là 霓裳, nghĩa gốc là cái váy màu cầu vồng, thường dùng chỉ trang phục của phụ nữ. Trong đó, “nghê” là cầu vồng (còn gọi là mống trời), là hiện tượng tự nhiên do ánh sáng mặt trời xuyên qua hơi nước trong mây tạo thành một phổ ánh sáng gồm các dải màu liên tục (người Trung Hoa xưa quan niệm cầu vồng có 5 màu - ngũ sắc), “thường” là cái xiêm, cái váy của phụ nữ thời xưa. Không chỉ là vật thể hữu hình, “nghê thường” còn mang hàm ý biểu tượng cho vẻ đẹp siêu thực, thần tiên, thường được dùng để gợi nhắc đến các tiên nữ hay mỹ nhân trong thơ ca và nghệ thuật truyền thống.

ĐÒN THÙ CHÍ MẠNG GIỮA XUÂN QUỲNH, XUÂN DIỆU - Vương Trí Nhàn

 

Trong nghề làm thơ, Xuân Quỳnh tìm tòi học nghề ở Chế Lan Viên chứ không ở Xuân Diệu. Ngược lại, Xuân Diệu thấy loại như Phạm Tiến Duật là lạ, chứ Xuân Quỳnh không lạ. Sự không bằng lòng nhau ngấm ngầm đã có từ lâu, đến lúc này mới có dịp bùng nổ.

Cậy tuổi già, Xuân Diệu đi khắp nơi rêu rao, cho là Xuân Quỳnh không đáng như thế, chẳng qua đây là một nhà thơ phụ nữ xinh đẹp, nên chài được mọi người (chữ "chài" là của Xuân Diệu) khiến cho tuyển thơ chẳng còn thể thống gì nữa.

Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2025

SẢ 𦲺 - Bài viết của Khánh Ly


Hình ảnh: Sả, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ

“Mạ thường về trong giấc mơ con
Cơm muối sả, tập tàng, rau đắng…”
                                    (Mạ, Võ Quê)
 
Sả, chữ Nôm viết 𦲺. Nó còn có nhiều tên gọi khác như sả chanh, hương mao, cỏ sả,... với tên khoa học là Cymbopogon citratus, thuộc họ lúa, mọc nhiều ở vùng nhiệt đới. Ở nước ta, từ đồng bằng đến miền núi, hầu như gia đình nào cũng trồng vài bụi sả quanh vườn. Cây sả mọc thành bụi, cao khoảng 0,8 đến hơn 1,5m. Các bẹ lá ôm khít tạo thành “tép sả”. Lá sả hẹp như lá lúa, bề mặt có lông nhám, toàn thân tỏa hương tinh dầu vừa mát vừa nồng, rất dễ nhận ra, từ lâu đã in sâu vào ký ức bếp Việt.
 

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2025

TRỞ VỀ QUÊ CŨ – Thơ Nguyễn Bính


   
 
Đi đã mười năm mới trở về
Tâm tình tràn ngập bước đường quê
Nghe sao nao nức như hồi trẻ
Níu áo theo cha buổi hội hè!
 
Dãy núi Trang Nghiêm đứng chống trời
Mười năm núi vẫn đợi chờ tôi
Sườn cao rêu phủ xanh đồn giặc
Tôi đã về đây: núi mỉm cười!
 
Ruộng vỡ đường cày, ngõ trải rơm
Phải đây Văn Miếu lối vào thôn?
Đi lâu quên cả màu hoa đại
Quên cả mùi hương gạo tám thơm!
 
Ngõ xuống bờ ao chơi ú tim
Nhà em hàng xóm biết đâu tìm?
Biết đâu vườn táo cành sai quả
Giếng đá trăng vàng đâu bóng em?
 
Một cơn khói lửa mấy tơi bời
Cảnh cũ làng xưa khác cả rồi
Ngước mắt trông lên trời cũng lạ
Nhà ai đây chứ phải nhà tôi!
 
Hỏi tên nhận mặt nhớ ra rồi
Mừng tủi bâng khuâng khóc lẫn cười
Trẻ xóm mười năm giờ lớn bổng
Mười năm mất mát biết bao người...
 
Mẹ cha khuất núi mấy thu tròn
Vườn táo cô mình đã bốn con
Nhớ thuở hội xuân chèo dóng trống
Xin mình giấy đỏ đánh môi son
 
Nháo nhác đầu hồi chim sẻ kêu
Mưa thưa trắng lạnh nửa ao bèo
Sửa sai câu chuyện với trầu mặn...
Giọng kể cô tôi nặng bóng chiều!
 
. . . .
Đất nước qua bao trận mất còn
Vàng son vẫn vẹn giá vàng son
Cô mừng trẻ lại năm mười tuổi,
Chẳng uổng công mình, xương máu con.
 
Xuân này vui tết lại vui quê
Lại chuyện làm ăn, chuyện hội hè,
Xanh biếc đầu xuân nương mạ sớm
Dậu tầm xuân nở, bướm vàng hoe.
 
Vào đám làng tôi mở trống chèo
Bay cờ, lộng gió, đỏ đuôi nheo
Lớp màn Thị Kính nuôi con mọn
Tôi biết người xem lệ chảy nhiều...
 
Hôm ấy tôi đi nắng ửng vàng
Bời bời ngõ cũ tím hoa xoan:
Xóm giềng tiễn biệt, cô đưa cháu
Đến mãi đầu thôn cạnh giếng làng.
 
Dãy núi Trang Nghiêm nhích lại gần
Trời cao vời vợi một màu xuân
Ta đi, chào núi, ta đi nhé!
Phơi phới tình quê buổi xuất quân...
 
                                Nguyễn Bính

 Trích trong trang “Trong từng câu chữ”

RAU MÁ (蔞䔍) - Bài viết của Khánh Ly


Hình ảnh: Rau má, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ

“Mình về ta chẳng cho về
Nắm tay kéo lại, mình thì ở đây
Rau má là lá lan dây
Đã trót dan díu, ở đây đừng về
Rau má là lá lan thề
Đã trót dan díu đừng về ở đây.”
                                   (Ca dao)

Rau má, chữ Nôm viết 蔞䔍, còn gọi là tích tuyết thảo hay lôi công thảo, danh pháp khoa học là Centella asiatica, thuộc họ Hoa tán (Apiaceae). Loại cây này dễ sống, thường thấy ở những nơi ẩm ướt, râm mát như bờ mương, thung lũng hay đất tơi xốp, phổ biến ở các vùng nhiệt đới châu Á, Australia và đảo Thái Bình Dương.

Thứ Năm, 2 tháng 10, 2025

ĐẤT LÀNH CHIM ĐẬU - Trần Vấn Lệ



Bầy chim sẻ đã về sau hai ngày vắng mặt! Thấy chim là hạnh phúc, ngày mới ơi của tôi!
 
Bạn nghe có thể cười - ai biểu bạn... bỏ bạn!  Năm mươi năm mấy tháng, rồi còn bao nữa đây?
 
Ai "sống mòn" từng ngày chắc như tôi, lẩn thẩn?  Người mình không thù hận... vậy mà tay chia tay!
 
Cái gì nói cũng hay!  Cái gì thấy cũng tủi!  Hay, chưa kịp được nói, tủi buồn... năm mươi năm!
 
Người thành người - Cố Nhân!  Quê thành quê - Cố Quận!  Cầm vạt áo lên thấm... nước mắt trào biển sông... 
 
Sáng nay chim về đông, tôi nhìn chim, nói nhảm!  
 
*
"Chín mươi... sắp gần lắm, quê nhà càng xa xôi!"  Ông Võ Phiến có cười khi cùng tôi nói chuyện...
 
Bây giờ... ông tan biến bình tro trút biển khơi... Bà cũng đã lìa đời, bình tro trôi biển rộng!
 
Việt Nam mình ai sống cũng ngậm cười Thiên Thu!  Tôi ra nghĩa trang chơi... rồi về như chim sẻ!
 
Quê nhà không kịp ghé, tôi - tồi tệ hơn chim... Đất Lành chim bay tìm!  Đất Lành... tôi vĩnh biệt!
 
                                                                                   Trần Vấn Lệ

NGƯỜI ĐI ĐÂU – Thơ Bùi Giáng




 
Bàn chân bước người đi về một thuở
Lá phân vân bờ bến cát sương rung
Trời khuya khoắt phiêu du trăng bỡ ngỡ
Người đi đâu sông nước lạnh vô cùng
 
Bóng trắng xa bay về em có thấy
Cuối phương ngàn rừng núi mộng trong sương
Giòng sông đục giòng xưa sông sóng giậy
Nghe triền miên nức nở lệ lên đường
 
Một tiếng nói một nụ cười chợt tắt
Hết mấy phen buồn trở lại bên đời
Đồng ruộng cũ màu trôi trong cỏ nhặt
Dưới bình minh rạ xám gốc trơ phơi
 
Trời vi vút én liệng vòng hớt hải
Đi đi em nguồn giậy mộng chiêm bao
Về thao thức canh chầy tìm trở lại
Bốn chân trời người đứng ở nơi nao
 
Màu con mắt bên màu xuân xiêu đổ
Ở bên kia nhìn trở lại bên này
Gió lay lắt bốn phương về dồn tụ
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay...
 
 Bùi Giáng

(Theo Trong Từng Câu Chữ)

Thứ Tư, 1 tháng 10, 2025

RUNG CÂY DỌA KHỈ - Đặng Xuân Xuyến



Rung Cây Dọa Khỉ là mưu chước dùng thư từ hoặc bất kỳ một phương tiện nào để mắng mỏ, sỉ nhục, cảnh cáo đối phương hoặc tạo ra những thông tin giả, nhũng nhiễu dư luận để uy hiếp tinh thần, buộc đối phương phải thay đổi ý định. Thực chất của mưu kế này là nhằm làm tăng thêm sức mạnh của mình, trấn áp và hạ gục đối thủ mà không phải tốn nhiều công sức.

ĐỌC BÀI THƠ “QUA PHỔ” CỦA HÀ VŨ GIANG CHÂU - Châu Thạch


Tác giả Hà Vũ Giang Châu


QUA PHỐ
                    
Rảo qua phường phố tìm người                    
Phố hằng vết phố người cười lạ chưa                   
Buồn trong ta mấy cho vừa                     
Đường xưa giờ cũng đã thưa thớt người                    
Chợt nhìn em nở nụ cười                    
Ô hay                    
Sao giống dáng người ngày xưa.
                                    
                                 Hà Vũ Giang Châu
 
ĐỌC BÀI THƠ “QUA PHỔ” CỦA HÀ VŨ GIANG CHÂU
                                                                                          Châu Thạch
 
Nhà thơ Hà Vũ Giang Châu, một tên tuổi của diễn đàn thi ca từ trước năm 1975 cho đến nay tại miền Nam Việt Nam. Dầu tôi có viết thêm về ông bao nhiêu đi nữa thì cũng không thấm gì đối với gia tài văn chương đồ sộ và những bài bình thơ khen tặng trên văn thi đàn, của những cây bút ái mộ thơ ông.
 

TIẾNG QUAN HOẢ 官話 /ku̯an³³ xu̯a²⁴/ - Ưng Chu, Hán-Việt Thông Dụng.



Các bạn nghe đến tiếng Quan hoả chưa? Đây là tên gọi của tiếng Quan thoại Tây Nam được dùng tại một vùng lãnh thổ Trung Quốc tiếp giáp miền núi phía Bắc Việt Nam, như tại Vân Nam
雲南, Tứ Xuyên 四川, Trùng Khánh 重慶, Quý Châu 貴州, Quảng Tây 廣西...
"Quan hoả" là cách đọc từ "Quan thoại" 官話 bằng tiếng Quan thoại Tây Nam /ku̯an³³ xu̯a²⁴/. Vì sự đa dạng về bản ngữ, các cộng đồng ngôn ngữ chung sống tại khu vực kể trên sử dụng tiếng Quan thoại Tây Nam làm ngôn ngữ chung (lingua franca). Tại miền núi phía Bắc Việt Nam gần với biên giới tại Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, tiếng Quan hoả được dùng bởi một số cộng đồng người Hmong (Mông), người Cờ Lao, người Tu Dí... làm ngôn ngữ giao tiếp chung bên cạnh bản ngữ của mình hoặc tiếng Việt. Người thuộc các dân tộc này cũng sinh sống tại các tỉnh nói tiếng Quan hoả ở Trung Quốc.

Thứ Ba, 30 tháng 9, 2025

TRẬN RƯỢU NHỚ ĐỜI! – Đặng Xuân Xuyến

                                (Viết tặng Nguyễn Toàn Thắng)
 
Ảnh: Đặng Xuân Xuyến (bìa phải) và Nguyễn Toàn Thắng (bìa trái)

Một bận, không biết “cú” chuyện gì, Thắng xuống nhà “gạ” lão lên Triệu Việt Vương “nếm” rượu. Lão là thằng thích rượu, khi uống, cứ tì tì chén 1 chén 1; đã uống là phải uống cho đã, phải “tưng tửng” say mới chịu rời bàn. Còn Thắng, thuộc thành phần thêm người cụng chén cho rôm rả nên lão lấy điện thoại, định gọi thêm chiến hữu thì Thắng cản: - “Hôm nay em có chuyện muốn nói với anh. Chỉ anh em mình ngồi với nhau.”. Thấy lạ, nhưng nghĩ chắc cu em muốn tâm sự chuyện gia đình, chuyện học hành, hoặc chuyện yêu đương... nên lão gật đầu.
 

CHẠM THU, MẶC NIỆM SEN, VÔ NGÔN - Thơ Tịnh Bình


    


CHẠM THU
 
Chợt xa rồi khúc giao mùa bảng lảng
Lá mùa thu ẩn hiện sớm mai thơm
Ngày ươm gió mọc đầy trời hoang vắng
Áo vàng thu phơ phất nắng mơ màng
 
Nghe se sẽ dịu dàng hương nội cỏ
Chạm cúc hoa ngỡ màu nhớ tinh khôi
Thu kịp đến trao mùa xưa thinh lặng
Lơ đãng heo may bối rối hương thầm
 
Hong tóc gió trở về mùa thiếu nữ
Hát vu vơ theo bầy sẻ vô tư
Thu lắng đọng thương mùa sen đi vắng
Ru nồng nàn giọt ký ức mềm môi
 
Mưa thánh thót vỗ về đêm lặng
Phố trầm tư tiếng gió mơ hồ
Rưng sắc lá tiễn mùa quá vãng
Lối mờ sương loang vết thu tàn...
 

Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2025

“MÔ NGƯ NHI, NHẠN KHÂU BÀI” BÀI TỪ MÀ LÝ MẠC SẦU HÁT TRONG TRUYỆN “THẦN ĐIÊU HIỆP LỮ - Đông Phương Bá


Hình: Internet

Mô ngư nhi - Nhạn khâu bài từ mà nữ ma đầu Lý Mạc Sầu thường hay đọc trong tác phẩm Thần Điêu Hiệp Lữ.

Ai đọc tiểu thuyết hay coi các bản phim kiếm hiệp chuyển thể từ tiểu thuyết Thần Điêu Hiệp Lữ của cố nhà văn Kim Dung, chắc cũng có ấn tượng về bài thơ của nữ ma đầu Lý Mạc Sầu, vì tình mà tác ác đa đoan. Không ít người thuộc lòng, nhưng chắc không phải ai cũng rõ xuất xứ bài này.

BÙI GIÁNG, GÁI MỘT CON TRÔNG MÒN CON MẮT - Trần Hoàng Vy


Bùi Giáng và Thu Trang

Trong bài thơ Mắt buồn in trong tập Mưa nguồn xuất bản tại Sài Gòn năm 1962, có 2 câu thơ kết đã gây nhiều tranh cãi trong giới văn nghệ sĩ của miền Nam trước 1975 và cả đến bây giờ là: “Bây giờ riêng đối diện tôi/ Còn hai con mắt khóc người một con”.
Người ta thắc mắc với hình ảnh “Còn hai con mắt khóc người một con” là như thế nào? Điều đó có hàm ý gì và ẩn nghĩa ra sao? Có rất nhiều giả thuyết và giai thoại được đem ra giải thích, song có vẽ như chưa thật sự thuyết phục, trừ khi đấy là lời thú nhận từ chính bản thân Trung niên thi sĩ, nếu ngài… sống dậy!

TANG ĐIỀN, TANG HẢI, TANG THƯƠNG - Mỹ Trinh.



Bể dâu” vốn là cách nói vắn tắt của thành ngữ Hán văn “thương hải tang điền” (蒼海桑田), nghĩa là “biển xanh biến thành ruộng dâu”. Điển tích này xuất phát từ “Thần tiên truyện”: tiên nữ Ma Cô từng kể rằng trong khoảng thời gian quen biết Vương Phương Bình, bà đã ba lần chứng kiến biển Đông biến thành ruộng dâu. Ý niệm ấy trở thành một hình ảnh ẩn dụ để chỉ sự biến đổi lớn lao, khôn lường của vũ trụ.
 

Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2025

TÔI CẢM THẤY XẤU HỔ - Khuất Đẩu

"Khi tôi đọc nhẫm một câu thơ, hay một câu nhạc hay; tôi thường nhớ về các ông Tây truyền đạo này với lòng biết ơn đầy kính trọng...".
 
Cha-Alexandre-De-Rhodes

Tôi thực sự cảm thấy xấu hổ! Hơn 300 năm trước, bằng 24 chữ cái và 5 dấu các giáo sĩ dòng Tên và cha Đắc Lộ đã cơ bản ghi lại trên giấy thứ tiếng “hót như chim” của người Việt.
Đó là cánh cửa thần kỳ mở ra cho cả Đàng Trong và Đàng Ngoài cơ hội tiếp cận với văn minh Âu châu.
 

Thứ Năm, 25 tháng 9, 2025

ĐÊM MÃI THANH XUÂN – Thơ Trần Mai Ngân


    
                                Nguồn ảnh trên google.

Đêm nhen nhúm cháy nồng nàn tình cũ
Của thanh xuân trên miền trắng đôi bờ
Đôi tay níu, bấu riết cõi ơ hờ
Ú ớ gọi tên nhau không tròn tiếng...
 
Đêm bồng lai mênh mang đêm giữ lại
Một đêm nay và chỉ một đêm nay
Ngực căng đầy mùi hương ủ không phai
Nốt son đỏ phập phồng theo nhịp thở...
 
Đêm cứ thế trốn tìm nhau bỡ ngỡ
Trong chập chùng trong mê dại ...trong nhau
Nụ môi hoa xin uống cạn ngọt ngào
Vầng nguyệt khuyết treo cao làm nhân chứng...
 
Vầng nguyệt khuyết treo cao làm nhân chứng !
 
                                                 Trần Mai Ngân

THỦY TẠ 水榭 – Ung Chu



Các công trình xây trên mặt nước hoặc bao quanh là nước thường được gọi là "thuỷ tạ", ở Việt Nam có nhiều nhà hàng thuỷ tạ. Một số người cho rằng "thuỷ tạ" là cách viết sai chính tả, lập luận rằng phải là "thuỷ toạ" với "toạ" nghĩa là ngồi.

Tuy nhiên, "thuỷ tạ" 水榭 là từ lâu đời trong Hán ngữ, tiếng Nhật đọc là "sui-sha" すいしゃ, tiếng Hàn đọc là "su-sa" 수사.

- thuỷ : nước
- tạ : nhà xây trên nền cao (đài, bệ, sàn...), tức là thay vì xây trực tiếp trên mặt đất thì sẽ làm một cái nền nâng lên rồi mới xây, chữ này mang bộ "mộc" (cây gỗ) và kí âm bằng chữ "xạ" .
 
Thôi Thực 崔湜 thời Đường có thơ đề rằng:
 
水榭宜時陟
山樓向晚看
 
Thuỷ tạ nghi thời trắc
Sơn lâu hướng vãn khan
 
Nghĩa là:

Leo lên thuỷ tạ vào thời điểm thích hợp, ngắm nhìn nhà lầu ở núi lúc nhá nhem.
                                                                                           Ung Chu