BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 15 tháng 10, 2025

NỖ LỰC (努力) NGHĨA LÀ "GẮNG SỨC" CÓ ĐÚNG KHÔNG? - Vinhhuy Le



Đây là nói về chữ “Nỗ lực” trong bài thơ Trần Quang Khải làm lúc theo vua Trần về kinh:
 
TỤNG GIÁ HOÀN KINH SƯ
從駕還京師
 
Đoạt sáo Chương Dương độ
奪槊章陽渡
Cầm Hồ Hàm Tử quan
擒胡鹹子關
Thái bình tu nỗ lực
太平須努力
Vạn cổ thử giang san
萬古此江山
 
Bản dịch của cụ Trần Trọng Kim:
 
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy muôn thu
 
KHÚC MẮC Ở CHỮ “NỖ LỰC”.
 
Nỗ lực là “cố gắng hết sức”. Hết sức vì giống gì? Vì nền thái bình, tức thịnh trị cho nhà Trần. Người ta thường chỉ nỗ lực để nhằm mục đích nào đó chưa hoàn thành. Thí dụ: “Nỗ lực phấn đấu đặng lên chức, lên lương”. Ở đây đã đuổi xong giặc Nguyên, là thái bình rồi; vậy còn nỗ lực vì thái bình nào nữa?

Thứ Hai, 13 tháng 10, 2025

LÊ LONG ĐĨNH: VỊ VUA "HOANG DÂM" HAY NỖI OAN LỊCH SỬ? - Lê Thọ Bình



Trong hơn nghìn năm, tên tuổi Lê Long Đĩnh- Lê Ngoạ Triều gắn liền với hình ảnh “vua hoang dâm ngọa triều”. Nhưng khi soi lại cổ sử, có lẽ chúng ta đã quá bất công với vị vua trẻ ấy, người từng thân chinh năm lần dẹp loạn và mộ đạo đến mức xin kinh sách về nước.

 Vị vua trẻ trên lưng ngựa:

Từ thuở còn cắp sách đến trường, nhiều thế hệ học sinh Việt Nam đã nghe về “vua Lê Ngọa Triều”, ông vua hoang dâm vô độ, tàn ác, đến nỗi phải nằm mà thiết triều. Cái tên ấy gần như trở thành biểu tượng của sự suy đồi, là tấm gương để răn dạy hậu thế. Nhưng nếu một lần mở lại những trang cổ sử, soi xét kỹ bối cảnh lịch sử, ta sẽ thấy một sự thật khác: Lê Long Đĩnh không hẳn là vị hôn quân như người ta vẫn nghĩ, mà có thể là một vị vua trẻ tài năng, anh dũng, song bị lịch sử đối xử bất công.

Chủ Nhật, 12 tháng 10, 2025

MỘT CHỮ, NỬA THẾ KỶ TRANH CÃI VỀ ĐÔI CÂU ĐỐI NỔI TIẾNG Ở ĐỀN KIẾP BẠC - Nguyễn Hồng Lam

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện giới thiệu bài viết của Nguyễn Hồng Lam

                         

Đây là đôi câu đối rất nổi tiếng, trước hết vì nó rất hay mà lại rất ngắn. Tác giả của đôi câu đối là Tam nguyên Thám hoa Vũ Phạm Hàm là một người hay chữ bậc nhất hồi đầu thế kỷ XX. Nổi tiếng nữa là vì có một dị bản khác là "thung thanh" gây ra cuộc tranh cãi liên miên trên khắp các mặt báo trong hơn nửa thế kỷ qua. Vậy "thu thanh"(Tiếng mùa thu, cũng là tiếng binh đao) hay là "thung thanh"(Tiếng đóng cọc).
 
山皆
水不
 
Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí,
Lục Đầu vô thủy bất thu thanh
 
Dịch nghĩa:
 
Vạn Kiếp có ngọn núi nào thì đều vương hơi kiếm
Lục Đầu không con nước nào không vang tiếng đao binh.

                                                                            Nguyễn Xuân Diện

Thứ Sáu, 10 tháng 10, 2025

CHÙM THƠ 38 BÀI ĐỘC VẬN 4 CÂU - Đặng Xuân Xuyến




LẠI NỮA...
 
Lại nữa, một đêm. Lại một đêm
Lại nghe rón rén mé bên thềm
Lại mùi ngai ngái nơi chăn đệm
Lại tiếng thở dài buôn buốt đêm.
 
Chủ nhật, 01 tháng 06-2025


VIẾNG CỤ BÙI HIỀN
(Cảm tác khi đọc tin Cụ Bùi Hiền về cõi hư vô)

Ô hô Cụ đã người thiên cổ
"Cải cách" (1) Cụ ơi "lắm chuyện rồ" (2)
Trăm năm bia miệng còn đấu tố
Kính Cụ an lòng cõi hư vô!
 
-------
(1): Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Hiền đề xuất cải tiến chữ Quốc ngữ.
(2): Dư luận dậy sóng bất bình về đề xuất cải tiến chữ Quốc ngữ.

Hà Nội, 12 tháng 05 năm 2015


VIẾT CHO NGÀY SINH NHẬT
 
Định ghé trần gian chơi vài bữa
Ai dè duyên phận bận tứa lư
Loanh quanh rồi lại loanh quanh nữa
Lại một tháng Tư lạnh gió lùa!

Hà Nội, ngày 17 tháng 4-2025


HÈ SỚM
 

Hè đã về rồi? Thật vậy sao?
Kìa tiếng chim Quyên riu rít chào
Và em tíu tít tươi màu áo
Rộn nắng trong vườn, gió lao xao...

Làng Tám, sớm 15 tháng 4-2025

 
EM ĐẾN CHƠI NHÀ

Em đến chơi nhà, mắt như hoa
Mang theo câu ví gửi làm quà
Miệng cười chúm chím, duyên duyên lạ
Em dán mùa Xuân thắm cả nhà!
 
Hà Nội, 12:28 Mồng 2 Tết Ất Tỵ
(Tức 30 tháng 01 năm 2025)
 

NGHE NHẠC NHỚ QUÊ
 
Con đi chúc Tết, bố ở nhà
Nằm nghe Tuấn Vũ (1) nhớ Xuân qua
Ơ hay, sao bỗng thành kẻ lạ
Không dưng lại khóc nhớ quê nhà!

-----
(1) ca sĩ Tuấn Vũ
Hà Nội, 13:37 Mồng Một Tết Ất Tỵ
(Tức 29 tháng 01 năm 2025)

HAI NGÀY TRÔI QUA LẶNG LẼ - Trần Vấn Lệ



Hai ngày trôi qua lặng lẽ...Mùa Thu yêu quý chưa về!  Tưởng tượng trời mưa lê thê, gạt tay... chỉ là nước mắt?
 
Mùa Thu, mùa yêu thương nhất.  Mùa của đám cưới hàng năm... Có lẽ người ta nghĩ rằng:  Hôn trong ngày lạnh mới ấm?
 
... cho nên dù xa muôn dặm, đẹp như tiểu thuyết:  Thư Tình.  Tôi chờ một cánh thư xanh, với mình, bây giờ không có...
 
... kể cả thư các em nhỏ, xưa - xưa lắm, học trò.  Các em giống như giấc mơ, nhỏ hơn Thầy đâu mấy tuổi!
 
Tôi đang chờ Thu, tôi nói, vụn vằn, vụng về... ghép chữ thành Thơ!  Tôi thích làm Thơ Tự Do.  Tôi thích "không gì ràng buộc"... giống như lời hứa "bị nuốt" thì thôi... chuyện của chuyện đời!
 
Bạn tôi Chicago xa xôi nhắn về Cali nói lạnh.  "Mà tại vì em muốn tránh gặp anh nóng lắm nụ hôn!".
 
*
Hơi thở của tôi mãi còn để tôi sống nhờ câu đó!
Chicago - Los Angeles... cách xa nhau bởi gió và hoa và cỏ đường sương!  Tình Yêu không ai cô đơn!  Chiếu giường Tình Yêu là chữ... Tình Yêu quà trao nhiều thứ... Xa nhau một bước là buồn!
 
Đang nắng!  Nắng như nước tuôn chảy luồn từng con đường phố.  Mùa Thu ở đây... dưới hố.  Tôi nhìn.  Tôi thấy Quê Hương một Xã Hội Buồn Khôn Tả!  Tôi nghĩ là tôi nói quá những gì báo chí đang đăng... Tôi nghĩ tôi-không-nhân-văn!  Hai chữ Nhân Văn ngộ há?
 
Mai tôi đề thơ trên lá...
Thu vàng rơi đi lá Thu!
                                                                                    Trần Vấn Lệ

HAI BÀI THƠ ĐẠO - Châu Thạch


   
                   Tác giả Châu Thạch


TRÊN ĐỈNH SIN SUỐI HỒ
 
Đỉnh núi cao hơn trên đỉnh mây
Bài tôn vinh Chúa thật là hay
Cả bản H'Mong đều nên thánh
Một góc Thiên Đàng ngay chốn đây
 
Tôi đã cùng em đến một ngày
Rừng thiên nước độc lại lành thay
Tưởng đâu như có nhiều thiên sứ
Đi lại trên trời như bướm bay
 
Mới biết niềm tin hạnh phúc thay
Đại ngàn bình tịnh ánh trăng đầy
Mặt trời qua núi như ru võng
Đêm ngủ cùng ta giấc mộng say!
 

TÌNH ĐẤT – Thơ Lê Kim Thượng


   

 
Tình Đất   
 
1.
Đường về xa lắm người ơi
Quê hương hai tiếng gọi mời trong anh…
Cổng làng đã phủ rêu xanh
Đón người ngày ấy đã thành…  Người xưa
Sông dài biết mấy đò đưa
Thương đời Cha Mẹ nắng mưa dãi dầu
Sông xưa giờ đã bắc cầu
Bâng khuâng nhung nhớ một câu gọi đò
Đất cằn sỏi đá âu lo
Gom tùng hạt thóc đắn đo vụ mùa
Bến sông sóng vỗ gió đùa
Lời ru Đất Mẹ sớm trưa nặng tình
Chợ quê họp cạnh sân đình
Quà quê thấm đậm nghĩa tình chân quê
Trăm năm một cõi đi về
Người trăm năm vẫn bộn bề truân chuyên…

Thứ Năm, 9 tháng 10, 2025

GIẾNG LÀNG – Thơ Bàng Bá Lân


 

Hẹn nhau bên bờ giếng,
Chờ nhau lúc rạng trăng,
Nàng vân vê dải yếm,
Chàng nắn sửa vành khăn.
 
Dưới trăng nàng bối rối,
Dưới trăng chàng băn khoăn,
Nhìn nhau mà chẳng nói,
Bốn mắt đọng trăng rằm...
 
Hẹn nhau bên bờ giếng,
Chờ nhau lúc rạng trăng.
Trăng đến, nàng không đến,
Chàng lo buồn đăm đăm.
 
Nàng đã đi làng khác,
Theo một người khăn đen,
Không còn nghe giọng hát,
Bên đình lúc nguyệt lên.
 
Ai cúi mình trên giếng?
Ai thả gầu múc trăng?
Ai cười yêu nửa miệng?
Tan rồi mộng gối chăn!
 
Không hẹn bên bờ giếng,
Không chờ lúc rạng trăng,
Đêm đêm chàng vẫn đến
Bên giếng khóc âm thầm...
 
Đêm nay chàng lại đến
Bên giếng khóc âm thầm,
Bỗng gặp bên bờ giếng
Đôi bóng người dưới trăng.
 
Nàng cũng vê dải yếm,
Chàng cũng nắn vành khăn.
Cũng nhìn nhau âu yếm,
Bốn mắt đọng trăng rằm.
 
Giếng trăng, nơi hò hẹn,
Giếng trăng, nơi hẹn hò,
Từ xa xưa đến bây giờ
Giếng làng ghi dấu bao trò hợp tan!
 
                                   Bàng Bá Lân

Thứ Hai, 6 tháng 10, 2025

NGHÊ THƯỜNG 霓裳 - Bài viết của Mỹ Trinh


Hình ảnh: Nghê thường, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ

“Nghê thường”, chữ Hán là 霓裳, nghĩa gốc là cái váy màu cầu vồng, thường dùng chỉ trang phục của phụ nữ. Trong đó, “nghê” là cầu vồng (còn gọi là mống trời), là hiện tượng tự nhiên do ánh sáng mặt trời xuyên qua hơi nước trong mây tạo thành một phổ ánh sáng gồm các dải màu liên tục (người Trung Hoa xưa quan niệm cầu vồng có 5 màu - ngũ sắc), “thường” là cái xiêm, cái váy của phụ nữ thời xưa. Không chỉ là vật thể hữu hình, “nghê thường” còn mang hàm ý biểu tượng cho vẻ đẹp siêu thực, thần tiên, thường được dùng để gợi nhắc đến các tiên nữ hay mỹ nhân trong thơ ca và nghệ thuật truyền thống.

ĐÒN THÙ CHÍ MẠNG GIỮA XUÂN QUỲNH, XUÂN DIỆU - Vương Trí Nhàn

 

Trong nghề làm thơ, Xuân Quỳnh tìm tòi học nghề ở Chế Lan Viên chứ không ở Xuân Diệu. Ngược lại, Xuân Diệu thấy loại như Phạm Tiến Duật là lạ, chứ Xuân Quỳnh không lạ. Sự không bằng lòng nhau ngấm ngầm đã có từ lâu, đến lúc này mới có dịp bùng nổ.

Cậy tuổi già, Xuân Diệu đi khắp nơi rêu rao, cho là Xuân Quỳnh không đáng như thế, chẳng qua đây là một nhà thơ phụ nữ xinh đẹp, nên chài được mọi người (chữ "chài" là của Xuân Diệu) khiến cho tuyển thơ chẳng còn thể thống gì nữa.

Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2025

SẢ 𦲺 - Bài viết của Khánh Ly


Hình ảnh: Sả, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ

“Mạ thường về trong giấc mơ con
Cơm muối sả, tập tàng, rau đắng…”
                                    (Mạ, Võ Quê)
 
Sả, chữ Nôm viết 𦲺. Nó còn có nhiều tên gọi khác như sả chanh, hương mao, cỏ sả,... với tên khoa học là Cymbopogon citratus, thuộc họ lúa, mọc nhiều ở vùng nhiệt đới. Ở nước ta, từ đồng bằng đến miền núi, hầu như gia đình nào cũng trồng vài bụi sả quanh vườn. Cây sả mọc thành bụi, cao khoảng 0,8 đến hơn 1,5m. Các bẹ lá ôm khít tạo thành “tép sả”. Lá sả hẹp như lá lúa, bề mặt có lông nhám, toàn thân tỏa hương tinh dầu vừa mát vừa nồng, rất dễ nhận ra, từ lâu đã in sâu vào ký ức bếp Việt.
 

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2025

TRỞ VỀ QUÊ CŨ – Thơ Nguyễn Bính


   
 
Đi đã mười năm mới trở về
Tâm tình tràn ngập bước đường quê
Nghe sao nao nức như hồi trẻ
Níu áo theo cha buổi hội hè!
 
Dãy núi Trang Nghiêm đứng chống trời
Mười năm núi vẫn đợi chờ tôi
Sườn cao rêu phủ xanh đồn giặc
Tôi đã về đây: núi mỉm cười!
 
Ruộng vỡ đường cày, ngõ trải rơm
Phải đây Văn Miếu lối vào thôn?
Đi lâu quên cả màu hoa đại
Quên cả mùi hương gạo tám thơm!
 
Ngõ xuống bờ ao chơi ú tim
Nhà em hàng xóm biết đâu tìm?
Biết đâu vườn táo cành sai quả
Giếng đá trăng vàng đâu bóng em?
 
Một cơn khói lửa mấy tơi bời
Cảnh cũ làng xưa khác cả rồi
Ngước mắt trông lên trời cũng lạ
Nhà ai đây chứ phải nhà tôi!
 
Hỏi tên nhận mặt nhớ ra rồi
Mừng tủi bâng khuâng khóc lẫn cười
Trẻ xóm mười năm giờ lớn bổng
Mười năm mất mát biết bao người...
 
Mẹ cha khuất núi mấy thu tròn
Vườn táo cô mình đã bốn con
Nhớ thuở hội xuân chèo dóng trống
Xin mình giấy đỏ đánh môi son
 
Nháo nhác đầu hồi chim sẻ kêu
Mưa thưa trắng lạnh nửa ao bèo
Sửa sai câu chuyện với trầu mặn...
Giọng kể cô tôi nặng bóng chiều!
 
. . . .
Đất nước qua bao trận mất còn
Vàng son vẫn vẹn giá vàng son
Cô mừng trẻ lại năm mười tuổi,
Chẳng uổng công mình, xương máu con.
 
Xuân này vui tết lại vui quê
Lại chuyện làm ăn, chuyện hội hè,
Xanh biếc đầu xuân nương mạ sớm
Dậu tầm xuân nở, bướm vàng hoe.
 
Vào đám làng tôi mở trống chèo
Bay cờ, lộng gió, đỏ đuôi nheo
Lớp màn Thị Kính nuôi con mọn
Tôi biết người xem lệ chảy nhiều...
 
Hôm ấy tôi đi nắng ửng vàng
Bời bời ngõ cũ tím hoa xoan:
Xóm giềng tiễn biệt, cô đưa cháu
Đến mãi đầu thôn cạnh giếng làng.
 
Dãy núi Trang Nghiêm nhích lại gần
Trời cao vời vợi một màu xuân
Ta đi, chào núi, ta đi nhé!
Phơi phới tình quê buổi xuất quân...
 
                                Nguyễn Bính

 Trích trong trang “Trong từng câu chữ”

RAU MÁ (蔞䔍) - Bài viết của Khánh Ly


Hình ảnh: Rau má, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ

“Mình về ta chẳng cho về
Nắm tay kéo lại, mình thì ở đây
Rau má là lá lan dây
Đã trót dan díu, ở đây đừng về
Rau má là lá lan thề
Đã trót dan díu đừng về ở đây.”
                                   (Ca dao)

Rau má, chữ Nôm viết 蔞䔍, còn gọi là tích tuyết thảo hay lôi công thảo, danh pháp khoa học là Centella asiatica, thuộc họ Hoa tán (Apiaceae). Loại cây này dễ sống, thường thấy ở những nơi ẩm ướt, râm mát như bờ mương, thung lũng hay đất tơi xốp, phổ biến ở các vùng nhiệt đới châu Á, Australia và đảo Thái Bình Dương.

Thứ Năm, 2 tháng 10, 2025

ĐẤT LÀNH CHIM ĐẬU - Trần Vấn Lệ



Bầy chim sẻ đã về sau hai ngày vắng mặt! Thấy chim là hạnh phúc, ngày mới ơi của tôi!
 
Bạn nghe có thể cười - ai biểu bạn... bỏ bạn!  Năm mươi năm mấy tháng, rồi còn bao nữa đây?
 
Ai "sống mòn" từng ngày chắc như tôi, lẩn thẩn?  Người mình không thù hận... vậy mà tay chia tay!
 
Cái gì nói cũng hay!  Cái gì thấy cũng tủi!  Hay, chưa kịp được nói, tủi buồn... năm mươi năm!
 
Người thành người - Cố Nhân!  Quê thành quê - Cố Quận!  Cầm vạt áo lên thấm... nước mắt trào biển sông... 
 
Sáng nay chim về đông, tôi nhìn chim, nói nhảm!  
 
*
"Chín mươi... sắp gần lắm, quê nhà càng xa xôi!"  Ông Võ Phiến có cười khi cùng tôi nói chuyện...
 
Bây giờ... ông tan biến bình tro trút biển khơi... Bà cũng đã lìa đời, bình tro trôi biển rộng!
 
Việt Nam mình ai sống cũng ngậm cười Thiên Thu!  Tôi ra nghĩa trang chơi... rồi về như chim sẻ!
 
Quê nhà không kịp ghé, tôi - tồi tệ hơn chim... Đất Lành chim bay tìm!  Đất Lành... tôi vĩnh biệt!
 
                                                                                   Trần Vấn Lệ

NGƯỜI ĐI ĐÂU – Thơ Bùi Giáng




 
Bàn chân bước người đi về một thuở
Lá phân vân bờ bến cát sương rung
Trời khuya khoắt phiêu du trăng bỡ ngỡ
Người đi đâu sông nước lạnh vô cùng
 
Bóng trắng xa bay về em có thấy
Cuối phương ngàn rừng núi mộng trong sương
Giòng sông đục giòng xưa sông sóng giậy
Nghe triền miên nức nở lệ lên đường
 
Một tiếng nói một nụ cười chợt tắt
Hết mấy phen buồn trở lại bên đời
Đồng ruộng cũ màu trôi trong cỏ nhặt
Dưới bình minh rạ xám gốc trơ phơi
 
Trời vi vút én liệng vòng hớt hải
Đi đi em nguồn giậy mộng chiêm bao
Về thao thức canh chầy tìm trở lại
Bốn chân trời người đứng ở nơi nao
 
Màu con mắt bên màu xuân xiêu đổ
Ở bên kia nhìn trở lại bên này
Gió lay lắt bốn phương về dồn tụ
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay...
 
 Bùi Giáng

(Theo Trong Từng Câu Chữ)

Thứ Tư, 1 tháng 10, 2025

RUNG CÂY DỌA KHỈ - Đặng Xuân Xuyến



Rung Cây Dọa Khỉ là mưu chước dùng thư từ hoặc bất kỳ một phương tiện nào để mắng mỏ, sỉ nhục, cảnh cáo đối phương hoặc tạo ra những thông tin giả, nhũng nhiễu dư luận để uy hiếp tinh thần, buộc đối phương phải thay đổi ý định. Thực chất của mưu kế này là nhằm làm tăng thêm sức mạnh của mình, trấn áp và hạ gục đối thủ mà không phải tốn nhiều công sức.

ĐỌC BÀI THƠ “QUA PHỔ” CỦA HÀ VŨ GIANG CHÂU - Châu Thạch


Tác giả Hà Vũ Giang Châu


QUA PHỐ
                    
Rảo qua phường phố tìm người                    
Phố hằng vết phố người cười lạ chưa                   
Buồn trong ta mấy cho vừa                     
Đường xưa giờ cũng đã thưa thớt người                    
Chợt nhìn em nở nụ cười                    
Ô hay                    
Sao giống dáng người ngày xưa.
                                    
                                 Hà Vũ Giang Châu
 
ĐỌC BÀI THƠ “QUA PHỔ” CỦA HÀ VŨ GIANG CHÂU
                                                                                          Châu Thạch
 
Nhà thơ Hà Vũ Giang Châu, một tên tuổi của diễn đàn thi ca từ trước năm 1975 cho đến nay tại miền Nam Việt Nam. Dầu tôi có viết thêm về ông bao nhiêu đi nữa thì cũng không thấm gì đối với gia tài văn chương đồ sộ và những bài bình thơ khen tặng trên văn thi đàn, của những cây bút ái mộ thơ ông.
 

TIẾNG QUAN HOẢ 官話 /ku̯an³³ xu̯a²⁴/ - Ưng Chu, Hán-Việt Thông Dụng.



Các bạn nghe đến tiếng Quan hoả chưa? Đây là tên gọi của tiếng Quan thoại Tây Nam được dùng tại một vùng lãnh thổ Trung Quốc tiếp giáp miền núi phía Bắc Việt Nam, như tại Vân Nam
雲南, Tứ Xuyên 四川, Trùng Khánh 重慶, Quý Châu 貴州, Quảng Tây 廣西...
"Quan hoả" là cách đọc từ "Quan thoại" 官話 bằng tiếng Quan thoại Tây Nam /ku̯an³³ xu̯a²⁴/. Vì sự đa dạng về bản ngữ, các cộng đồng ngôn ngữ chung sống tại khu vực kể trên sử dụng tiếng Quan thoại Tây Nam làm ngôn ngữ chung (lingua franca). Tại miền núi phía Bắc Việt Nam gần với biên giới tại Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, tiếng Quan hoả được dùng bởi một số cộng đồng người Hmong (Mông), người Cờ Lao, người Tu Dí... làm ngôn ngữ giao tiếp chung bên cạnh bản ngữ của mình hoặc tiếng Việt. Người thuộc các dân tộc này cũng sinh sống tại các tỉnh nói tiếng Quan hoả ở Trung Quốc.