BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 17 tháng 6, 2025

CHẠM – Thơ Trần Mai Ngân


    

Mùa Hạ chạm vào tôi
Nhành Phượng đỏ cháy rực
Tiếng ve, tiếng ầu ơ buổi trưa ký ức
Mẹ ru tôi… tay quạt không ngừng
 
Mùa Thu tới lưng chừng, lưng chừng
Chiếc lá rơi chạm vào tôi kỉ niệm
Một nhánh sông ngưng trôi tháng bảy
Khi người về từ chốn xa xôi…
 
Những năm tháng chạm vào tôi - trưởng thành rồi già cỗi
Vẫn nỗi niềm trọn vẹn với yêu thương
Đi qua gần hết vô thường
Chỉ còn lặng lẽ như dường đã lâu!
 
                                                                  Trần Mai Ngân

Thứ Hai, 16 tháng 6, 2025

BIÊN BẢN 編本 - Hán-Việt Thông Dụng, Ung Chu



"Biên bản" 編本 là một từ Hán-Việt người Việt tự tạo từ rất lâu, chuyên để gọi các loại văn bản được biên soạn, ghi chép cho mục đích công vụ, họp hành...
- biên : sắp xếp, sắp đặt, đặt chuyện, biên soạn, viết, ghi chép, như trong "biên kịch", "biên lai", "biên nhận" ("biên lai" 編來 và "biên nhận" 編認 cũng là các từ Hán-Việt người Việt tự tạo), đã được Việt hoá thành động từ "biên" trong tiếng Việt
- bản / bổn : tập vở ghi chép, văn bản, như trong "kịch bản".
"Việt-Nam tự-điển" (1931) của Hội Khai Trí Tiến Đức ghi:
- Biên bản 編本. Những tờ giấy biên những việc gì thuộc về công-sự: Biên-bản việc bầu cử, biên-bản việc tố-tụng, biên-bản việc hình án.
Xét cách đọc là "bản" thay vì "bổn", ta đoán rằng từ "biên bản" xuất phát từ các địa phương ở phía Bắc. Tại Hà Nội, sách "Từ hàn cử yếu" 詞翰舉要 (có đủ các lối đơn-từ giấy-má làm việc quan hơn 100 thể) xuất bản năm 1924 có phần hướng dẫn quy cách viết các biên bản.
                                                                                               Ung Chu

HỒN ĐẠI VIỆT, GIỌNG HÀN THUYÊN - Nguyễn Hiến Lê


Thi sĩ Đông Hồ (1906-1969)
 
Một trong những nét đẹp nhất mà cũng đặc biệt nhất của đạo Nho, không thấy trong các triết học khác, là gây được cái truyền thống tiến vi quan, thoái vi sư. Học là để tu thân, mà tu thân là để giúp nước, bằng “chính”“giáo”. Gặp thời loạn không thể thi thố tài đức để cứu dân được thì trở về dạy dân để chuẩn bị cho một thời khác.
 
Khổng tử đã tạo nên truyền thống ấy: ông là người đầu tiên mở các lớp tư thục bình dân ở Trung quốc, vừa làm chính trị vừa dạy học, khoảng sáu mươi bảy tuổi, biết đạo mình không nhà cầm quyền nào muốn theo, mới quay về chuyên việc dạy học. Nội điểm đó, ông cũng được tôn là “vạn thế sư biểu” rồi. Ông “khai lai” rồi Mạnh Tử “kế vãng”. Đời của Mạnh cũng y hệt đời ông, cũng bôn ba các nước chư hầu cho tới già rồi cũng trở về dạy học và có lần thốt ra câu bất hủ này: Người quân tử có ba niềm vui mà một trong ba niềm đó là được các anh tài trong thiên hạ để dạy dỗ (đắc thiên hạ anh tài nhi giáo dục chi).
 

CHỮ NGHĨA “NỆ HÁN” ĐÃ LÀM SAI LỆCH TIẾNG VIỆT KHÔNG THỂ TƯỞNG! - Matthew NChuong


Hình ảnh trong Chùa Đất Sét (Sóc Trăng), theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương (Phật Thầy Tây An), CÚNG DƯỜNG bằng thư pháp.

* Âm Hán-Việt chỉ là một phần trong tiếng Việt, và khi gọi "nệ Hán" nghĩa là lấy cách dùng chữ của người Hán làm "chuẩn" úp chụp xuống cách dùng TIẾNG VIỆT CỦA NGƯỜI VIỆT!
* Hai chữ “CÚNG DƯỜNG” bị giải thích méo mó, sai trật tinh yếu của đạo Phật …!

&1&

1a) Để gìn giữ nền tảng của tiếng Việt, trong nhiều thế kỉ ròng rã, tiền nhơn chúng ta đã phải mượn chữ Hán để tạo chữ NÔM (không mượn, biết lấy thứ chữ gì để ghi lại TIẾNG NÓI của người Việt?).
Chữ Nôm thành hình bằng nhiều cách: ghép hai chữ Hán lại với nhau thành một chữ (khiến cho người Hán, và những ai “nệ Hán” chỉ riu ríu dùng Hán mà thôi, nhìn vô là bù trất!);
mượn nguyên dạng chữ Hán, NHƯNG:
- tuy đồng âm (mượn âm Hán-Việt HV mà đọc), NGHĨA THÌ KHÁC HOÀN TOÀN.
- hoặc đồng nghĩa, nhưng “dị âm” (tức ĐỌC BẰNG QUỐC ÂM, khác với âm HV).
- đặc biệt, xin chú ý, là cách thức ĐỌC BẰNG QUỐC ÂM (“dị âm”) và NGHĨA CŨNG KHÁC (“dị nghĩa”) so với chữ Hán.

KÝ ỨC ĐÊM... - Chùm thơ Đặng Xuân Xuyến


   
 
LẠI NỮA...
 
Lại nữa, một đêm. Lại một đêm
Lại nghe rón rén mé bên thềm
Lại mùi ngai ngái nơi chăn đệm
Lại tiếng thở dài buôn buốt đêm.
Chủ nhật, 01 tháng 06-2025
 

CẠN ĐÊM
(với Khờ)

Men theo hơi rượu cuối ngày
Nghiêng bình để rót cho đầy cữ say
Ừ nào túy lúy đêm nay
Rượu ngon ủ kỹ tao mày cạn đêm.
Hà Nội, đêm 3 tháng 7/2024
 
 
BUỐT ĐÊM
 
Một tiếng còi tàu ghiến nát đêm
Một tiếng ho đêm rục gối mềm
Một người lụi cụi soi chăn đệm
Một ánh mắt buồn buôn buốt đêm.
Đêm 03 tháng 04 năm 2024

CHÚA NHẬT NGÀY KHÔNG XẤU CẢM TẠ ĐỨC CHÚA TRỜI - Trần Vấn Lệ



"Chúa Nhật, mình làm gì?".  Vẫn câu hỏi mọi khi tôi hỏi người thương lắm, nàng đưa tay tối nắm...
 
Đôi môi nàng tươi thắm.  Một nụ hôn đầu ngày.  Chúng tôi tay-trong-tay.  Chúng tôi cùng đi chợ...
 
Mở máy xe.  Máy nổ.  Chúng tôi đang trên đường.  Hai bên là phố phường, nhớ Việt Nam quá đỗi...
 
Bạn quê nhà qua nói:  "Thành Phố chừ là Phường,  Huyện, Quận đều xóa hết.  Kỷ Nguyên Mới hay thiệt:
 
...cả nước:  Một Cái Làng!
 
Chỗ to to thì  Xã! Thương yêu còn chỉ Má, Cha bỏ mẹ nó thôi... Tôi nhắc, nàng bật cười.
 
Tiếng cười thật thú vị!
 
Phải thế chứ!  Chứ lỵ!  "Ai mà đi hết bể chẳng về lại cái Làng?".  Trần Văn Thủy, nhà  văn có dẫn ra câu đó...
 
Và... chúng tôi vào chợ!
 
*
Ngày Chúa Nhật ngày Chúa.  Nghe tưng bừng tiếng chuông.  Chuông xé tan màn sương.  Thế gian vui mở hội!
 
Vào hàng hoa tươi rói, tôi ngó mặt, nàng vui.  Rồi hàng trái cây tươi.  Rồi hàng thịt, hàng cá...
 
Rồi kệ bày hàng hóa, nàng chụp vài thứ cần - thí dụ cục xà bông, thí dụ chai nước mắm...
 
Xong hết, cùng chầm chậm, đẩy xe ra trả tiền.  Nàng giành:  "Để cho em", tôi tưởng bạn cùng nhậu...
 
Chúa Nhật ngày không xấu!  Cảm tạ Đức Chúa Trời...
 
                                                                                       Trần Vấn Lệ 

BỐN BỀ TRĂNG MƠ – Thơ Nhã My, nhạc Phan Ni Tấn, Lê Anh Tuấn hòa âm, Huyền Anh trình bày


 Nhà thơ Nhã My

                

HÁT CÂU LỖI NHỊP – Thơ Huỳnh Tâm Hoài, nhạc Nguyễn Hữu Tân, Lê Hùng hòa âm, Huỳnh Thanh Sang trình bày

  


                 

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2025

LỄ CHA – Phiếm luận của Đỗ Chiêu Đức



Chúa Nhật thứ ba của Tháng Sáu hằng năm, là ngày LỄ CHA (Father's Day) của nước MỸ. Ngày LỄ CHA năm nay nhằm ngày Chúa Nhật 15 tháng 6 năm 2025.
          
 Ta thường gọi ngày LỄ MẸ là NGÀY HIỀN MẪU, nên khi đến ngày LỄ CHA thì rất nhiều người theo thói quen, thay chữ MẪU bằng chữ PHỤ, và gọi ngày Lễ Cha bằng NGÀY HIỀN PHỤ ??!!...
 
Ngày Lễ Cha, Father's Day, không thể gọi là ngày HIỀN PHỤ được, vì Hiền Phụ 賢婦 là VỢ HIỀN, chớ không phải CHA HIỀN. Muốn nói Cha Hiền thì phải gọi là TỪ PHỤ 慈父, lấy trong thành ngữ  "Phụ Từ Tử Hiếu 父慈子孝 ", tương đương trong tiếng Nôm ta là "Cha Hiền Con Thảo."  Trong gia đình Phong Kiến ngày xưa, người Cha luôn luôn nghiêm khắc và nghiêm cẩn trong mọi hành vi cũng như sinh hoạt của gia đình, nên còn được gọi là NGHIÊM ĐƯỜNG, NGHIÊM PHỤ.  Lời dạy của Cha thì gọi là NGHIÊM HUẤN, như trong Truyện Kiều, khi Thúc Ông bắt Thúc Sinh phải bỏ cô Kiều, cụ NGUYỄN DU đã viết:
                    
Thấy lời NGHIÊM HUẤN rành rành,                    
Đánh liều sinh mới lấy tình nài kêu.

Thứ Năm, 12 tháng 6, 2025

TA ĐỢI EM TỪ BA MƯƠI NĂM – Thơ Vũ Hoàng Chương


  

Ta đợi em từ ba mươi năm
Uổng hoa phong nhuỵ hoài trăng rằm
Heo may chớm đã lên mùa gió
Ngăn ngắt chiêm bao lạnh chiếu nằm
 
Cúc tả tơi vàng mộng xác xơ
Hiên sương ngõ lá vẫn trông chờ
Đêm dài quạnh hé đôi song lớn
Nguyệt đọng vòng tay úa giấc mơ
 
Ngai trống, vàng son lợt sắc rồi
Lòng ta, hoàng hậu chẳng về ngôi
Hồ ly không hiện người không đến
Chỉ ánh trăng vào khuôn cửa thôi
 
Hiu hắt tình trai một kiếp suông
Mênh mông nệm gối rét căn buồng
Lệ sa bạch lạp ngàn đêm trắng
Thơ vút sầu say, rượu nhập cuồng
 
Đã mấy canh khuya nụ ngát nhài
Kết chưa thành mộng ý liêu trai
Lung linh nguyệt thấm vàng trang sách
Đợi chẳng bừng sen nhịp gót ai
 
Thôi thế hoài thơm tuổi dịu hiền
Cánh khô mầm lụi trót hoa niên
Chương đài ca quán, ôi hồng liễu
Nửa cuộc trần gian lợm yến diên
 
Khắp đã nghe tìm mỏi núi sông
Đâu sương vó ngựa, gió mui bồng
Gió sương giờ vẫn buồng đây lạnh
Em hỡi! phương nào em có không
 
                       Vũ Hoàng Chương

GẦN 7 THẾ KỶ TRUNG HOA BỊ CÁC "TIỂU QUỐC" CHIẾM LĨNH, CAI TRỊ ! - Matthew NChuong


Hình ảnh (MONGOL (Mông Cổ) xâm chiếm Trung Hoa

Ghi chú lai rai…

* Các "tiểu quốc" có dân số ít hơn hẳn, nhưng họ tấn công và đều chiến thắng, cai trị Trung Hoa. Khi nào thì "tiểu quốc" mới thua? Khi và chỉ khi giới cầm quyền "tiểu quốc" tự quì mọp mà thôi!

/1/ Sắc tộc du mục Khitai (tiếng Ba Tư: ختن‎; phiên qua chữ Hán là 契丹: Khiết Đan) cư trú ở vùng Bắc Á, Trung Á. Họ tấn công nhà Tống của Trung Hoa, chiếm kinh đô Bắc Kinh và toàn bộ phía Bắc Trung Hoa, đẩy nhà Tống xuống phía Nam (sử gọi là "nhà Nam Tống").
Người Khitai (Khiết Đan) lập ra "Khiết Đan quốc" ((契丹國), còn gọi là nhà Liêu ( ). Cho dù là "ngoại tộc" ít hơn người Hán, nhưng họ buộc "đại quốc" Trung Hoa (Nam Tống) hàng năm phải triều cống cho họ.

Thứ Ba, 10 tháng 6, 2025

HUYỀN THOẠI BESAME MUCHO - Bùi Chí Vinh



Tôi và anh Trần Quang Minh tức Minh Bò (con trai cố giáo sư nhạc sĩ Trần Văn Khê) có nhiều kỷ niệm với nhau. Hồi ông Dương Đình Thảo, Giám đốc Sở Văn Hóa Thông Tin còn sinh tiền, tôi và anh cùng nằm trong phái đoàn báo chí văn nghệ đi lưu diễn huyện Duyên Hải mới thành lập. Phái đoàn do ông Dương Đình Thảo tức Sáu Thảo làm Trưởng đoàn quy tụ nhiều anh chị em văn nghệ sĩ nổi tiếng, trong đó có anh Minh Bò chuyên hát nhạc Pháp và biết nhái giọng muông thú giống quái kiệt Trần Văn Trạch, chú của anh. Phần tôi là chuyên gia đọc thơ.

TÌNH YÊU NÀO CHẲNG ĐẪM ĐẦY NƯỚC MẮT – Thơ Quách Như Nguyệt, nhạc Nguyễn Hữu Tân, ca sĩ Thúy Nga trình bày


Nhà thơ Quách Như Nguyệt


              

TÌNH YÊU NÀO CHẲNG 
                   ĐẪM ĐẦY NƯỚC MẮT

Nếu hỏi rằng anh có thật yêu em?
Nếu anh yêu tình có là vĩnh cửu?
Chắc là không, tình nào chẳng phiêu lưu
Tình yêu nào chẳng đẫm đầy nước mắt
 
Có những lúc đêm thật dài khuya khuắt
Anh có ngồi buồn bã nhớ thương em?
Gió hiu hiu rung động ở bên rèm
Anh có thấy tim mình khắc khoải
 
Nói với em tình mình là mãi mãi
Sao bây giờ chỉ gặp ở chiêm bao?
Lời hứa hẹn hóa ra là mộng ão
Vầng trăng kia rơi lệ đến khi nào?
 
Em hỏi anh sao tình mình sầu não?
Đôi tay em sao ngày một héo gầy?
Môi mộng ướt không người hôn khô héo
Em bây giờ tim hóa đá xanh xao
 
Gặp lại nhau chắc em làm mặt lạ
Vờ không quen chắc quay mặt hững hờ
Muốn hỏi anh sao tim em sõi đá?
Vẫn cảm sầu, đá biết khóc hay sao?
 
Vẫn mong anh có đời sống ngọt ngào
Vẫn nhớ anh dẫu tình là quá khứ
Anh yêu em một thời em biết chứ
Nhưng bây giờ chỉ còn lại trăng sao
 
Ngày qua ngày, lòng vẫn quá lao xao
Vẫn là em bài thơ buồn muôn thuở
Muốn hỏi anh sao tình mình dang dở?
Tự trả lời, sao biết được tại sao?
 
                                       Như Nguyệt

Thứ Hai, 9 tháng 6, 2025

DANH CA TUẤN NGỌC NÓI VỀ BỐ VỢ PHẠM DUY - Tùng Ninh



Danh ca Tuấn Ngọc nói thẳng về bố vợ Phạm Duy: "Có một điều kỳ lắm"
Vừa qua, tại một livestream, danh ca Tuấn Ngọc đã nhắc về bố vợ mình là đại nhạc sĩ Phạm Duy.
Ông nói:
 
"Tôi càng hát nhạc Việt Nam, càng nghiên cứu nhiều về nhạc Việt tôi lại càng yêu nhạc sĩ Phạm Duy. Có một điều kỳ lắm, mỗi lần nhắc đến ông Phạm Duy tôi lại càng cảm động vì đối với tôi, cuộc đời này phải biết ơn ông.
Tôi biết ơn ông Phạm Duy vì không ai đem đến cho xứ sở Việt Nam một kho tàng âm nhạc lớn như ông. Ông Phạm Duy có một không hai.
Bây giờ AI có thể làm nhạc, làm được mọi thứ nhưng không bao giờ làm được như ông Phạm Duy. Chúng ta sẽ không bao giờ có được những người nhạc sĩ như Phạm Duy.
Tôi may mắn vì sinh ra ở thời kỳ vàng son của nền tân nhạc Việt Nam với những nhạc sĩ tài hoa như thế, cái mà giới trẻ ngày nay khó có được vì sinh ra hai thời khác nhau.
Từ thời còn trẻ, ông Phạm Duy đã viết được trường ca nói lên tình cảm dân tộc, con người Việt Nam, từ dân ca tới văn hóa, nghe mà rùng mình vì quá hay".

BAO GIỜ GIẢI NGHĨA ĐƯỢC THƠ LÀ GÌ HỠI THƠ – Trần Vấn Lệ



Bây giờ là mùa Hạ... mùa Hạ của... ngày xưa?  Em à cây hoa mơ vì em nở hoa trắng...
 
Hoa trên trời, hoa nắng cũng vì em, nở kia... Mình đi lâu, chưa về, thương sao cây khuynh diệp...
 
Hai tà áo em khép, gió chưa nhiều bao nhiêu, em cứ đứng đăm chiêu... mắt bồ câu, ai biểu?
 
Em cứ vờ không hiểu anh biểu em làm gì... Lá khuynh diệp bay đi, đâu phải mùa Thu nhỉ?
 
Năm mươi năm hoài huỷ không mỏi chân một người!  Lịch sử không hổ ngươi kéo dài đời nhang khói!
 
Mùa Hạ không có tội. sao nó không tự do?  Nó không muốn hoa cờ, nó chỉ mơ hoa mộng...
 
Bao người đi tìm bóng trong mù sương trong trăng trong mờ ảo thế gian trong nhạt nhòa sóng gió...
 
Khi trở về cổ độ, lá vàng rơi, Thu ơi!  Nhớ lắm nha nụ cười em nửa vành nón lá...
 
*
Bài thơ này cho Mạ còn một chiều ru con.  Bài thơ này cho Non - Non Nước mình vĩnh biệt!
 
Em ơi mùa tha thiết bảng xanh bụi phấn vàng.  Phấn thông trong hành lang.  Áo dài em ngoài cổng...
 
Bài thơ này hy vọng người thả xuôi con sông người thả lệ đôi dòng người thơ con mắt ướt...
 
Bao giờ giải nghĩa được Thơ là Gì Hỡi Thơ?
                                                                                      Trần Vấn Lệ

VỀ QUÊ XƯA – Thơ Huỳnh Tâm Hoài, Nhã My, nhạc Phan Ni Tấn, Nguyễn Hữu Tân, giọng ca Phúc Duy


Nhà thơ Huỳnh Tâm Hoài

                

VỀ NƠI AN LẠC – Thơ Quách Như Nguyệt


 

Tất cả chúng ta
Khi sắp ra đi
Đều mong ước rằng
Ra đi thư thái
Về chốn vĩnh hằng
Vĩnh viễn bình an
 
Đừng chờ đừng đợi
Tu tập bạn ơi!
Vì bạn biết đó
Cái chết không chờ
Thiên đàng không đợi
Chẳng ai biết được
Ngày giờ ra đi
 
Ta phải làm gì
Để có cái chết
Êm ả thảnh thơi
Bình an phơi phới?
 
Yêu người yêu đời
Tập buông bỏ hết
Không giận không hờn
Bố thí muôn nơi
 
Bớt tham sân si
Làm lành tránh dữ
Bỏ đi nóng tánh
Vị tha hiền lành
Không than không trách
Không oán hận ai
Sống với hiện tại
Làm việc bác ái
Rãi tâm từ bi
Ngày ngày an tịnh
 
Nói dễ làm khó
Cái "tôi" khó bỏ
Tham lam khó từ
Dục ái quấy phá
Người về trong mơ...
 
Vì thế cho nên
Ta chẳng ơ thờ
Chịu khó tinh tấn
Tu tập chuyên cần
Từng bước từng bước
Đến gần Như Lai
 
              Như Nguyệt
         6 tháng 8, 2025

BẠI KHÔNG NẢN - Đặng Xuân Xuyến


 
Nếu chú ý quan sát và tìm hiểu về những người thành đạt, bạn sẽ thấy những người thành đạt xuất thân từ mọi tầng lớp của xã hội và đi lên từ những cảnh ngộ rất khác nhau. Họ có thể là chuyên viên của các tập đoàn tư bản lớn, các ngài Bộ trưởng đáng kính, những nhà khoa học tên tuổi trong các lĩnh vực ... nhưng họ đều có chung đặc điểm là biết chuyển bại thành thắng, biết phải làm gì khi gặp khó khăn. Khi vấp ngã, họ bình tĩnh xử lý tình huống một cách khéo léo thông minh, rồi tự rút ra những bài học để tránh lặp lại thất bại, để tiếp tục vươn lên phía trước

CÀ PHÊ ĐỨNG – Thơ Lê Phước Sinh


 

Dựa vào vai nhau
cùng chia mật ngọt 
cuộn môi tha thiết
mắt huyền ngủ yên.
 
Nhớ thương run rẩy
mái tóc vén lên.
 
      Lê Phước Sinh

PHỎNG VẤN TRÍ TUỆ NHÂN TẠO VỀ HÒA HỢP HÒA GIẢI DÂN TỘC VIỆT NAM – Trần Kiêm Đoàn

Lời mở đầu của người phỏng vấn:
 
Trước khi thực hiện cuộc phỏng vấn này, tôi đã tham khảo nhiều nguồn thông tin và trực tiếp đối thoại với những nhân vật “sống” trong và ngoài nước. Tuy nhiên, phản hồi nhận được đa phần rơi vào ba mô thức: 
(1) phê phán gay gắt phía đối lập,
(2) nói chung chung với lý thuyết viễn mơ, hoặc
(3) phủ nhận hoàn toàn tính khả thi của việc hòa hợp hòa giải.
 
Do đó, tôi đã tìm đến Trí tuệ Nhân tạo Chat GPT – như một cuộc đối thoại với "sự trống vắng im lặng", và đồng thời là một sự tổng hợp từ hàng triệu nguồn tiếng nói – để có được một cái nhìn khách quan, toàn diện, mang tinh thần đối thoại tương kính về một vấn đề lớn và dai dẳng của dân tộc Việt Nam.

 

Thực hiện: Trần Kiêm Đoàn – từ Sacramento, California, Hoa Kỳ lúc 5:15 PM ngày 3-6-2025
 
Trả lời: Trí tuệ nhân tạo Chat GPT – OpenAI
 
CÂU HỎI 1:
 
Vấn đề Hòa hợp Hòa giải Dân tộc có còn cần thiết trong tình hình hiện nay không? Vì sao?
 
Trả lời:
 
Vẫn rất cần thiết, và thậm chí còn cấp bách hơn trước. Vì:
Vết thương chiến tranh vẫn chưa được chữa lành bằng sự thừa nhận và đối thoại thành tâm.
Thế hệ trẻ đang lớn lên giữa những ký ức lệch lạc và định kiến truyền đời.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh địa vị chính trị, một dân tộc phân hóa là một dân tộc dễ tổn thương.
Hòa giải là nhiệm vụ đạo đức – không phải là sự nhân nhượng chính trị.
 

“VỀ QUÊ XƯA” PLAYLIST NHẠC MIỀN TÂY 2025 - Tuyển Tập Những Ca Khúc Phổ Thơ Huỳnh Tâm Hoài & Nhã My


 

                

Thứ Tư, 4 tháng 6, 2025

BÍ MẬT "THI SỸ MÁY" - Thái Kế Toại

Nhà văn - Đại tá An ninh Thái Kế Toại, một chuyên gia nghiên cứu về Nhân văn - Giai phẩm tìm ra tác giả của truyện ngắn "Thi sĩ máy"
 

Truyện ngắn Thi sỹ máy rất nổi tiếng trong Nhân Văn Giai Phẩm.
Nó là một trong những đối tượng bị phê phán dữ dội nhất như bài thơ Lời mẹ dặn của Phùng Quán, truyện ngắn Ông Năm Chuột của Phan Khôi, bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần, truyện ngắn Đống máy của Minh Hoàng… Nhưng có một điều bí ẩn là tác giả của nó, cái tên Châm Văn Biếm thì gần như mọi người không biết là ai. Có người biết láng máng hình như là Như Mai. Thậm chí có người mắc sai lầm tai hại như ông Hoàng Văn Chí, người đã tập hợp được đáng kể sáng tác của Nhân Văn Giai Phẩm trong cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc in ở Sài Gòn năm 1960. Ông Hoàng văn Chí khẳng định rằng Châm Văn Biếm là nhà giáo Hoàng Như Mai:
 

NGÀY CUỐI CÙNG CỦA THÁNG NĂM - Trần Vấn Lệ



Ngày cuối cùng của tháng Năm, mùa Xuân bay theo cơn gió Nồm về xa xăm.  Hoa La Jacaranda tím ngắt, nở từng bừng và nhuộm tím cái sân...
 
Mở đầu bài thơ tôi hụt hẫng quên hết rồi niêm luật người xưa.  Mà nhớ chi trong ngày đầu mùa Hạ?  "Em thơ Chị Đẹp em đâu?".
 
Không có ai chải đầu... Buổi sáng sao mà buồn vậy?  Những nhánh liễu còn chảy những giọt sương vương trong đêm...
 
Em!
Ngày cuối tháng Năm, bậc thềm mềm chăng, đá mục?  Con chim sẻ vừa đậu đó, bay đi... Có nhiều khi người ta ngó theo chim bay, ngó theo ngày vi vu cái bóng...
 
*
Tóc em dài nắng lên lồng lộng, dấu nụ hôn anh để đó trên vai...Rồi nắng sẽ phai, phai mùi thuốc lá... Rừng phong Thu mấy độ tàn phai?
 
Tôi kết thúc bài thơ nhỏ nhẹ với em rằng ngày tháng bâng khuâng...
 
                                                                                       Trần Vấn Lệ

NHỚ HỀ "SẠC-LÔ" CƯỜI LỘN RUỘT VÀ MỘT THỜI TUỔI NHỎ - Đinh Hoa Lư

Theo Wikipedia, Chaplin sinh năm 1889 tại Anh. Thời thơ ấu của Chaplin ở Luân Đôn là một thời thơ ấu nghèo khổ. Cha ông xa nhà để lại mẹ ông phải vật lộn về tiền bạc nuôi ông - Trước khi lên 9, ông từng hai lần phải ở vào trại tế bần. Khi ông lên 14 tuổi, mẹ ông lại phải vào trại tâm thần.
 

Chaplin bắt đầu kịch nghệ từ nhỏ. Ông từng lưu diễn tại các phòng hòa nhạc và sau đó làm diễn viên sân khấu và diễn viên hài. Năm 19 tuổi, ông ký hợp đồng với công ty Fred Karno, công ty đó đã đưa ông đến Mỹ. Ông được tuyển cho kỹ nghệ điện ảnh Mỹ từ 1914. Hãng Mỹ Keystone Studios là hãng đầu tiên thu nhận sự nghiệp của ông.


Tramp là nhân vật đầu tiên cho nhân vật màn ảnh của ông. Với The Tramp (1915) ông đạo diễn cho các bộ phim riêng cho mình. Càng lúc càng thu hút nhiều khán giả và càng thành công tài chính khi ông chuyển đến cho các tập đoàn điện ảnh như Mutual và First National. Vào năm 1918 Chaplin là nhân vật điện ảnh được trả lương cao nhất cùng nổi tiếng trên thế giới nhờ vào việc giúp cho thế nhân được CƯỜI...