BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 22 tháng 5, 2025

HẠ ĐỎ CÓ CHÀNG TỚI HỎI EM THƠ CHỊ ĐẸP EM ĐÂU – Trần Vấn Lệ



Đã thật sự vào Hè.  Tin thời tiết cho biết:  nhiều ngày nắng, nắng thiệt / độ nóng sẽ tăng lên...
 
Mình... bắt đầu phải quên / tháng Giêng trời lạnh buốt.  Tháng Hai, Ba, Tư rét ngọt... để nếm mùi tháng Năm!
 
Chắc chắn là tháng chung / nhiều Tiểu Bang bức bối:  Arizona, New Mexico... thật tội, có bão cát không chờ...  
 
Mùa Hè là mùa Thơ / của Huyền Kiêu trên hết?  "Em thơ này Chị Đẹp / của em đi đâu rồi?".
 
"Chị Đẹp em đi chơi... đi ra đồng đuổi bướm...".  Cái khăn choàng chị nhuộm / màu thời gian theo mùa...
 
Huyền Kiêu không nói mưa... ướt tóc của Chị Đẹp.  Tình Yêu thường xanh biếc, đỏ, hồng hay tím than...
 
Mình nghĩ tới màu vàng, cái khăn choàng Công Chúa. Mình mơ làm phò mã / dắt con ngựa màu hồng...
 
Nàng Công Chúa lấy chồng, mình phò mã hứng nắng / tô cho môi nàng thắm / tô cho lòng nàng thơm...
 
*
Em à, anh muốn hôn / bàn tay em thời tiết, môi em viền ánh nguyệt, má em hoa đào Xuân...
 
Thơ chỉ là bâng khuâng... mà tự dưng bắt được... Thời gian đang từng bước, người thương là nhớ thương!
 
Thế mới thấy dặm trường... dài biết bao sợi tóc!  Thế mới thấy Tổ Quốc... mình còn nguyên bốn mùa!
 
                                                                                      Trần Vấn Lệ

NGUYỄN ĐỨC SƠN, "TÔI NGHE TÔI CHẾT GIỮA TRỜI THINH KHÔNG!" - Phạm Hiền Mây



I. NGUYỄN ĐỨC SƠN - MỘT TRONG BA KỲ NHÂN CỦA
VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM TRƯỚC 75
 
Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn (1937-2020), hay còn gọi là Sao Trên
Rừng, Sơn Núi, đều chỉ là một người.
Trước năm 1975, người hâm mộ cho rằng, ông là một trong ba kỳ
nhân của miền Nam, hai người kia là Thế Phong và Phạm Công
Thiện. Cũng như, ông là một trong bốn tứ trụ thơ thời ấy, ba người
còn lại là Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền và Tô Thùy Yên.
 
Còn tôi, thì từ lúc bắt đầu đọc thơ ông, kết bạn với ông trên trang
facebook, tôi nhận ra ông vừa là bậc kỳ tài về thơ vừa lại có đôi
phần kỳ dị trong tính cách.
 
Tính cách ông, từ trẻ, đã như con ngựa chứng. Đến già, ông cũng
vẫn thế, bất kham và yêu thích tự do. Ông tự do trong chọn lựa
cuộc sống riêng cho mình, tự do khi suy nghĩ, tự do lúc nói năng,
vậy mà khi vào thơ, ông lại đa phần, chọn cho mình một thức thơ
gò bó, một thể thơ có luật lệ, đó là thơ lục bát.
 

Thứ Ba, 20 tháng 5, 2025

BÙI GIÁNG VÀ “LỜI VĨNH BIỆT” – Tran Ho Dung


Nhà thơ Bùi Giáng qua nét vẽ của họa sĩ Trương Đình Uyên,

Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng Thanh Châu, xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, là con thứ của ông Bùi Thuyên và bà vợ thứ hai là bà Huỳnh Thị Kiền nên được gọi là Sáu Giáng.
 

DANH CA Ý LAN, TÀI SẮC VẸN TOÀN – Đàng Sa Long



Dù đã ở tuổi 67, nữ nghệ sĩ này vẫn khiến công chúng trầm trồ bởi vẻ đẹp quý phái, thần thái trẻ trung như phụ nữ tuổi 40.
Trong làng nhạc Việt, Ý Lan từ lâu đã trở thành biểu tượng của sự duyên dáng, quý phái, tài hoa và bản lĩnh. Được biết đến như một trong những nữ danh ca nổi bật từ đầu thập niên 1990 đến nay, bà không chỉ chinh phục khán giả bằng giọng hát như rót mật vào tim, mà còn bởi vẻ đẹp kiều diễm, "sắc nước hương trời".

VÀI TÂM SỰ VỀ BÀI THƠ VIẾNG CỤ BÙI HIỀN – Đặng Xuân Xuyến



Đầu giờ chiều ngày 12 tháng 5-2025, đọc được tin Phó Giáo sư, Tiến sỹ Bùi Hiền vừa rời xa cõi tạm ở tuổi 90, tôi vội cảm tác vài dòng như nén tâm nhang tiễn biệt người quá cố rồi post lên trang facebook cá nhân:
 
ĐÃ NGƯỜI THIÊN CỔ
(Cảm tác khi đọc tin Cụ Bùi Hiền về cõi hư vô)
 
Ô hô Cụ đã người thiên cổ
"Cải cách" (1) Cụ ơi "lắm chuyện rồ" (2)
Trăm năm bia miệng còn đấu tố
Kính Cụ an lòng cõi hư vô!
-------
(1): Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Hiền đề xuất cải tiến chữ Quốc ngữ.
(2): Dư luận dậy sóng bất bình về đề xuất cải tiến chữ Quốc ngữ.
 
                                                             Hà Nội, 12 tháng 05 năm 2025
                                                                   ĐẶNG XUÂN XUYẾN
 
Thì chừng hơn tiếng sau tôi nhận được điện thoại của Nhà thơ TBC (tôi viết tắt tên anh vì thấy không cần thiết kéo dài tranh luận): - "Cậu học trường Đại học Văn hóa mà sao vô văn hóa thế!". Tôi sững người: - Có sự nhầm lẫn nào với em không anh? Sao vô cớ anh lại mắng em vậy? Thì anh trả lời: - "Nhầm lẫn cái con khỉ! Người ta vừa nằm xuống cậu đã làm thơ báng nhạo! Cậu không những vô duyên còn quá vô văn hóa!", rồi cụp điện thoại. Tôi ngạc nhiên vì sự đọc hiểu của anh nên định bấm điện thoại "dăm câu ba điều" để "giải tỏa ấm ức" thì tôi nhận được tin nhắn của Nhà thơ, Bác sĩ Nguyễn Đức Vân gửi mesenger tới tôi: - Xuyến nên gỡ bài đi, chú thấy chạnh lòng khi nghĩ về Phó Giáo sư, Tiến sỹ Bùi Hiền, và người Việt Nam mình luôn sống với đạo lý "Nghĩa tử là nghĩa tận", nhưng có những bạn vào đọc, bình luận những câu xúc phạm đến linh hồn cụ ấy.

Thứ Hai, 19 tháng 5, 2025

LỜI CHÚC MỪNG GỬI ANH CHỊ EM CÔNG GIÁO – Trần Kiêm Đoàn


Đức Giáo hoàng Leo XIV đứng phía trước bàn thờ, bên ngoài Vương cung thánh đường Thánh Peter để chuẩn bị cho lễ cầu nguyện. (Ảnh: Sky News)

Từ một Phật tử chân thành, với lòng kính trọng đạo bạn.
 
Tôi năm nay đã 80 tuổi, là một Phật tử thuần thành, từng là một huynh trưởng Gia Đình Phật Tử, sinh hoạt từ bậc Oanh Vũ gần bảy mươi năm trước, đồng thời cũng là một cựu học sinh “trường đạo” Dương Sơn vào thập niên 1950, và là sinh viên các phân khoa Văn Khoa, Sư Phạm Huế trong những năm 1960, nơi tôi đã có dịp được học hỏi với nhiều vị linh mục khả kính.
 
Với niềm vui lớn và sự cảm phục sâu sắc, tôi cùng các bạn thân hữu xin được chúc mừng sự kiện trọng đại: Đức Tân Giáo Hoàng LEO XIV vừa được tuyển chọn sau khi Đức Giáo Hoàng Francis viên tịch.
 

JE PENSE DONC JE SUIS – Trần Vấn Lệ




Ba hôm, trời trở lạnh:  cả nước Mỹ đều run!  Nhiều người rất "anh hùng":  đổi mùa, trời mới thế!
 
Những người đó... mặc kệ:  cứ mặc áo không tay... để thấy chút bờ vai êm êm như bờ biển!
 
Có người làm chim én xỏa tóc cho gió tung, cho thấy nụ môi hồng nở ngoài hoang đảo mộng!
 
Nghĩ ngợi:  trong cuộc sống, người ta luôn "số nhiều", ít người rất "đáng yêu" (con số này ít thiệt!).
 
Tôi thèm nhìn biển biếc... cũng thèm cánh tay trần các cô gái thanh xuân gom mây thành sóng bạc...
 
Thơ Hoàng Trúc Ly phổ nhạc, tôi. nghe có người hát:  "Hôm nay con gái đâu nhiều thế?  Những cánh tay tròn như cánh chim...".
 
Những cánh gà chiên tròn, cắn nhẹ, giòn... Thơm phức!  Bốn ngàn năm khổ cực... ước có lần... như mơ!
 
Ba mươi tháng Bốn vừa qua, Việt Nam mình như thế!  Bàn thờ hình Cha Mẹ, nhìn hoài... thấy rưng rưng!
 
"Dĩa gà chiên ngon hơm?" không nghe Mẹ Cha nói... Ba cây nhang tỏa khói ba vòng Bắc Nam Trung!
 
*
Ba hôm nay không đợi, trời trở lạnh buồn.  Buồn.  Tản Đà nói Nước Non.  Biển đó... Bao nhiêu Nước?
 
Người ta khóc, hứng được / Nước Mắt Của Mình rơi!  Biển... Nước biển đâu có trôi, chỉ sóng xô, ràn rụa...
 
Hàng phi lao đầy gió...
     Mẹ Cha trên bàn thờ...
           Hương thời gian... thơm tho!
                  Màu thời gian... trong vắt!
 
                                                                                       Trần Vấn Lệ

KẺ Ở MIỀN XA – Hồi ký của Đinh Hoa Lư, giọng đọc Nguyễn Tài

       
Tác giả Đinh Hoa Lư


                  

Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2025

UỐNG RƯỢU VỚI TẢN ĐÀ – Thơ Trần Huyền Trân


  

Cụ hâm rượu nữa đi thôi
Be này chừng sắp cạn rồi còn đâu
Rồi lên ta uống với nhau
Rót đau lòng ấy vào đau lòng này.
Tôi say?
            Thưa trẻ chưa đầy
Cái đau nhân thế thì say nỗi gì
Đường xa ư cụ?
                     Quản chi
Đi gần hạnh phúc là đi xa đường.
 
Tôi là nắng - Cụ là sương
Tôi bừng dậy sớm, cụ nương bóng chiều
Gió mưa tóc cụ đã nhiều
Lòng còn gánh nặng bao nhiêu khối tình.
 
Huống tôi mái tóc đang xanh
Vâng, tôi trăm thác ngàn ghềnh còn đi
Với đời một thoáng say mê
Còn hơn đi chán về chê suông đời.
 
Rót đi, rót rót đi thôi!
Rót cho tôi cả mấy mươi tuổi đầu
Nguồn đau cứ rót cho nhau
Lời say sưa mới là câu chân tình.
 
(Trần Huyền Trân - Ngã Tư Sở, 1938)

....................

Chép theo bản thảo tác giả để lại và bản in trong tập “Rau tần” (1986). Có bản in tiêu đề là “Với Tản Đà”.

MỐI TÌNH ĐẦU CỦA NGUYỄN PHÚC ÁNH - Nguyễn Thái Sơn


Lăng mộ ông bà Nguyễn Phúc Ánh và Tống Phúc Lan vẫn nằm thanh bình và yên ả bên nhau dù 200 năm đã trôi qua.

Mối tình đầu của Nguyễn Phúc Ánh là Tống Phúc Lan. Ánh lúc bấy giờ là một thiếu niên 16 tuổi đang bị Nguyễn Huệ treo lệnh truy nã lùng giết khắp nơi. Sau khi Ánh mặc áo tang chỉ huy quân đánh Gia Định và chiếm lại thành công thì gặp nàng.
 
Tuy Ánh sinh ra ở Huế, Lan sinh ra ở Thanh Hóa, nhưng lại biết nhau trên đất Sài Gòn cách đó hàng ngàn cây số vì chạy nạn. Hai người lại ngang tuổi nhau, tính ra cũng thật có duyên. Vừa thấy nàng là mặt chàng ngu đi, và đổ cái rầm như một cây chuối bị sét đánh. Đích thân Nguyễn Ánh đem lễ vật đến hỏi cưới nàng.

LÀNG MAI 43 NĂM HOA KHAI CHÁNH NIỆM – Trần Kiêm Đoàn



Trong mùa Phật Đản 2569 (Phật lịch) - 2025 (Dương lịch) và khởi đầu cho mùa An Cư Kiết Hạ truyền thống Phật giáo và đồng thời là mùa Hè của tuổi trẻ học sinh, sinh viên… sinh hoạt hoằng pháp được khởi động với quý tu sĩ hàng giảng sư và giáo thọ nhiệt thành và từ ái phát tâm tham gia thuyết pháp, pháp thoại và tu học dành cho Phật tử từ tuổi trẻ đến hàng cao niên đang được tổ chức tại nhiều chùa viện trong cũng như ngoài nước. Tại Thành phố Sacramento, thủ phủ tiểu bang California và vùng phụ cận cũng đang có sự hiện diện hoằng pháp của hai danh tăng Phật giáo thời đương đại là Thiền sư Viên Minh và Thiền sư Giới Đức (nhà thơ, nhà văn Minh Đức Triều Tâm Ảnh) tại Thiền viện Diệu Nhân.
 

MINH ĐỨC HOÀI TRINH, KHÁT VỌNG ẤY ĐÃ ĐI QUA MÙA LÁ ĐỔ (1930-2017) – Đỗ Trường

(Viết nhân 50 năm chiến tranh kết thúc, và 46 năm Hội văn bút Việt hải ngoại)


Nếu buộc phải chọn ra một khuôn mặt đại diện cho Văn học Việt Nam hải ngoại, có lẽ người tôi nghĩ đến trước nhất là nữ thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh. Sự tiêu biểu này, không hẳn vì tài năng, bút lực, mà bởi cùng với Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Xuân Vinh, Hoàng Anh Tuấn… bà đã đặt viên gạch đầu cho nền móng Văn học Việt nơi hải ngoại, ngay từ thập niên 50 ở thế kỷ trước. Và đặc biệt hơn nữa, ngay sau biến cố 1975, trải qua bao gian khó, Minh Đức Hoài Trinh đã sáng lập (phục hồi) Văn bút Việt Nam hải ngoại, thuộc Tổ chức Văn bút Quốc tế. Ở đó, ta có thể thấy có sự tiếp nối tư tưởng tự do sáng tạo, chống lại cường quyền, và áp bức của các văn nghệ sĩ.

CA SĨ NHƯ QUỲNH SAU NĂM 1975 – Nguyễn Phú Yên


Ca sĩ Như Quỳnh và cha, ông Lê Văn Chánh.

Sài Gòn sụp đổ. Cuộc sống gia đình của ca sĩ Như Quỳnh cũng đảo lộn theo. Ca sĩ Như Quỳnh, tên thật là Lê Lâm Quỳnh Như, sinh năm 1970, quê ở Quảng Trị và chuyển vào Sài Gòn từ năm 1971. Khi Sài Gòn thất thủ, cô mới chỉ là một cô bé 5 tuổi.
    
Gia đình của Như Quỳnh rơi vào cảnh nghèo khó. Một trong những nguyên nhân là vì cha cô, ông Lê Văn Chánh, phải đi học tập cải tạo. Ông Chánh là một sĩ quan an ninh của quân đội VNCH.

“TƯƠNG BIỆT DẠ”, “TÌNH SẦU”, THƠ HUYỀN KIÊU – Phạm Hiền Mây

                       
                                                                                                 Huyền Kiêu Bùi Lão Kiều  (1916 - 1995) hưởng thọ 80t


I. HUYỀN KIÊU, NGHĨA LÀ KIÊU, THÊM DẤU HUYỀN

Nhà thơ Huyền Kiêu tên thật là Bùi Lão Kiều. Huyền Kiêu có nghĩa là Kiêu, thêm dấu Huyền, thành Kiều.

Ông sinh năm 1915, và mất năm 1995, thọ tám mươi tuổi.

Ngoài làm thơ, ông còn là dịch giả. Huyền Kiêu làm thơ không nhiều. Ông nổi tiếng với hai bài Tương Biệt DạTình Sầu.

LẮNG NGHE “THƠ ĐỜI NGÂN VỌNG” CỦA LA THỤY – Minh Trí

Nguồn: 
https://baobinhthuan.com.vn/lang-nghe-tho-doi-ngan-vong-130225.html


“Thơ đời ngân vọng” là tên tập thơ của tác giả La Thụy (tên thật: Đoàn Minh Phú) Hội viên Hội Văn học - Nghệ thuật Bình Thuận, tập hợp 45 bài thơ, trong đó có 17 bài thơ Đường luật (gồm 12 bài thất ngôn bát cú, 5 bài thất ngôn tứ tuyệt), 14 bài lục bát cùng các bài ở những thể thơ khác.
 

Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2025

KHI NGƯỜI TÙ TRỞ VỀ… - Phan Nhật Nam



Sau 30 tháng 4, 1975 tôi đi dọc đường số 1 một lần. Lần độc nhất với đôi mắt khép lại để khỏi nhìn. Để đừng thấy. Tôi không nói quá – Lần trở về Nam ngày 29 tháng 5, 1988 sau mười-hai năm lưu đày đất Bắc. Tàu vào địa giới Miền Nam, qua Đông Hà, Ái Tử, Quảng Trị, La Vang… lúc trời mờ sáng. Tôi biết rõ tàu đang chạy qua những chốn nào. Vốn người gốc Quảng Trị, năm 1966-1967 hành quân từ Thừa Thiên ra Quảng Trị, tôi dẫn quân đi dọc Phá Tam Giang không cần xem bản đồ. Tàu đến Huế sáng 30 tháng 5 – ngày Phật đản.
 
Những năm trước 1968, ngày Phật đản ở Huế là một quốc lễ. Chợ Đông Ba không bán thịt; bún bò gánh chỉ nấu bún chay. Và đêm đến, trên sông Hương người Huế làm lễ Phóng đăng. Nhánh sông nhỏ dưới khu Gia Hội bồng bềnh giải ánh sáng lấp lánh trên nước như cảnh thần tiên. Mọi người nói giọng thấp xuống, nhỏ lại, chen tiếng niệm Phật A di đà Phật… Nam mô bổn sư… Những người hung tợn nhất xóm hóa ra hiền từ, nhân ái. Chỉ một đoạn đường mấy trăm thước của đường Trung Bộ (nơi tôi ra đời, sau 1954 đổi thành Tô Hiến Thành) có đến bốn chùa, và nhiều am, miếu. Chùa lớn, Diệu Đế; am Mã Ông Trạng. 

TRONG KHU VƯỜN MÙA HẠ, ĐOM ĐÓM ĐÊM HÈ – Thơ Tịnh Bình


       


TRONG KHU VƯỜN MÙA HẠ

Trong khu vườn xanh tiếng chim
Mát rượi đường bay của gió
Tôi trộm nghe đâu đó
Vài lời tình tự của cỏ và rêu
 
Huyên náo bên ngoài nhường chỗ lặng im
Mùa hạ chẳng thèm đánh thức lũ ve trưa ngái ngủ
Tiếng rao cất lên đứt quãng
Chưa kịp gọi ta về miền thơ ấu hôm qua
 
Đôi lúc chợt thèm cơn mưa áp thấp ban mai
Ngưng đọng màu trời xám xịt trôi ngang phố
Những mái ngói rêu cứ điềm nhiên xanh
Mặc lũ loa kèn váy áo tinh tươm ùa vào lòng phố
 
Với tay hái cho riêng mình chùm cổ tích
Nhắm mắt nghe lời gió vô thanh
Miền quá vãng chẳng thể nào quay lại...
 

EM TÌNH YÊU BÁT NGÁT NẮNG MÙA XUÂN – Trần Vấn Lệ



Hôm nay nắng!  Chỗ tôi ngồi, chỗ nắng.  Câu mở đầu:  Anh Nhớ Lắm Em Yêu!  Tôi tưởng tượng buổi-chiều-nay-vẫn-nắng, anh yêu em anh cắn nhé vành tai...
 
Em đưa hai tay.  Hai bàn tay, mười ngón, có mười thương của một bài Ca Dao.  Tôi yêu em!  Tôi uống nắng ngọt ngào:  Em Trên Hết Những Tựa Đề Bài Thơ Đẹp Nhất!
 
Em hiền từ!  Em của anh là Phật!  Bốn cảnh đời ai dàn vậy Thiên Thu?  Ai làm cho những buổi sáng sương mù?  Ai quét được hết khu rừng đầy lá? 
 
Không có ai!  Không có ai, em ạ.  Máy móc chế tạo ra từ khối óc sân si, từ tấm lòng hiểu biết chẳng có chi... Lá vẫn rơi dưới chân của người ta giẫm nó...
 
Cứ mỗi đầu Xuân, em thấy đồng xanh cỏ!  Không lúc nào em-không-mùa-Xuân-của-anh!  Ánh mắt em long lanh mong manh vòng quanh anh chữ Đạo!
 
Bên kia sông, những con chim sáo... Chúng sẽ bay về chiều nay hoàng hôn?  Cả thế gian chiêm ngưỡng Giáo Hoàng.  người im lặng nhường Tình Yêu Tiếng Nói!
 
*
Anh hôn em và có một câu hỏi:  Tại Vì Sao Em Có Mặt Trên Cõi Đời Này? Em là mây, mây giăng giăng đầu núi.  Em là thơ Thanh Thủy một dòng sông...
 
Em không đáp anh đâu nhưng anh nghe rõ tiếng lòng Tim Em Đập Êm Êm và không bao giờ dừng lại!  Anh hôn em, hứa rồi hôn mãi mãi.  Em-Tình-Yêu-Bát-Ngát-Nắng-Mùa-Xuân...
 
                                                                                      Trần Vấn Lệ

HOÀNG HOA – Thơ Lê Kim Thượng


   
 

Hoàng Hoa 1-2
 
1.
Cái ngày xưa ấy… “Ngày xưa…”
Em vừa đôi chín, tôi vừa đôi mươi
Những ngày mình có nhau rồi
Trăm năm thề hẹn một đời không xa
Áo em in nắng hoàng hoa
Hoa rơi lãng đãng, bóng tà nắng tan
Nón em đổ bóng hoa vàng
Lời em thủ thỉ, nhẹ nhàng biết bao
Trong vòng tay ấm nôn nao
Mắt đen lúng liếng, ngọt ngào môi em
Hôn em, hôn cánh môi mềm
Hôn rồi, hôn nữa, hôn thêm không rời
Cuộc tình sao cứ bồi hồi
Rưng rưng cái mất, chơi vơi cái còn
Cuối ngày, chiều tím hoàng hôn
Rời nhau không nỡ, nụ hôn còn đầy
Bên nhau, ngày đã cạn ngày
Trời giăng mưa bụi, lây rây ướt người
Còn vầng trăng sáng giữa trời
Chứng minh thề hẹn, trọn đời yêu nhau…
 
2.
Lời thề sao lại qua mau?
Có người đi lạc… cau trầu rụng rơi
Lời yêu đã hứa trọn đời
Tình xa, tình lỡ… rối bời nghiêng chao
Cuộc tình giờ đã hư hao
Vườn tình ngày ấy đã xao xác rồi
Hoa Xoan tím rụng đầy trời
Nhạt màu chung thủy… buồn ơi là buồn
Đã bao mùa Cải trổ ngồng
Em đi biền biệt vẫn không quay về
Rượu say, nửa tỉnh, nửa mê
Mình tôi ngồi với câu thề bẻ đôi
Tình ta chỉ có vậy thôi
Giờ còn sót lại một lời thề xưa
Tôi đem kỷ niệm đong đưa
Chôn vào ký ức cho vừa thương yêu
Lối xưa ai rẽ nửa chiều
Để cho ai nhớ, ai yêu âm thầm…
Bây giờ em tóc hoa râm
Vẫn còn vương chút hương thầm… “Ngày xưa…”
       
                                    Nha Trang, tháng 05. 2025
                                            Lê Kim Thượng             

VẪN CÒN MÙA XUÂN, VẪN THÁNG NĂM - Thơ Quách Như Nguyệt, nhạc Liên Bình Định, ca sĩ Tuyết Mai Ly trình bày

          
             

Thứ Tư, 14 tháng 5, 2025

“VẤN NẠN”, LÀ CCC GÌ ? – Hoàng Hải Vân


Tác giả Hoàng Hải Vân

Nếu như lão nông tôi một hôm nổi hứng lên nói với dzợ, rằng “vấn nạn kẹt xe ở Sài Gòn này không biết bao giờ mới được giải quyết”, thì chắc nàng sẽ bảo “ông bị khùng hả ?”. Thế mà trên nhiều phương tiện truyền thông khoảng vài chục năm gần đây một số trí thức và nhà báo hay sính dùng những cụm từ “Vấn nạn tham nhũng”, “Vấn nạn gian lận thi cử”, “6 vấn nạn tồn tại khiến giao thông TP.HCM tắc nghẽn”, “Những vấn nạn đáng báo động” 
 
Hai chữ “Vấn nạn” (問難) dù có trong tiếng Hán, nhưng tra trong bất cứ cuốn từ điển chữ Hán hay Hán-Việt nào, nó đều có nghĩa là “Hỏi khó” hoặc “Chất vấn hóc búa”.
Ví dụ trong Luận Ngữ :
“Tử Cống vấn nạn ư Khổng Tử” 子貢問難於孔子
(Nghĩa là : Tử Cống hỏi khó Khổng Tử).

“GIANG HỒ”, THƠ PHẠM HỮU QUANG – Phạm Hiền Mây



I. GIANG HỒ NGHĨA LÀ GÌ?

Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt
Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà

Là hai câu thơ, thú vị và thi vị, nhiều năm nay, vẫn luôn được mọi người nhắc đến trong niềm yêu mến và đầy thương tưởng.
Giang hồ nghĩa là gì, mà sao trong thơ ca, văn chương và cả đời thường nữa, lại nhắc tới nhiều đến vậy?

Học giả Đào Duy Anh trong Giản Yếu Hán Việt tự điển giải nghĩa  hai chữ “giang hồ” như sau: Tam giang và ngũ hồ là chỗ ẩn dật, không có chỗ định trú, hư phù, không tin được. Nghĩa rộng ra, “giang hồ” là từ dùng để chỉ cuộc sống phóng túng, rày đây mai đó, không ở yên một chỗ.

Thứ Ba, 13 tháng 5, 2025

ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ VỀ VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN - Đoàn Như Tùng Tony



Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, toàn bộ những giá trị kinh tế – xã hội của miền Nam đều bị xóa bỏ và thay thế bởi những khái niệm, chuẩn mực mới của miền Bắc XHCN. Riêng về lịch sử, triều Nguyễn (1802 – 1945) chịu sự phê phán, lên án hết sức nặng nề. Tất cả đường phố Sài Gòn có biển tên vua quan triều Nguyễn đều bị xóa bỏ, thay bằng những tên khác như Nguyễn Hoàng (bị thay bằng Trần Phú), Gia Long (Lý Tự Trọng), Thành Thái (An Dương Vương), Minh Mạng (Ngô Gia Tự), Hiền Vương (Võ thị Sáu), Lê Văn Duyệt (Cách Mạng tháng, Võ Di Nguy (Phan Đình Phùng), Nguyễn Huỳnh Đức ( Huỳnh Văn Bánh), Trương Minh Giảng (Lê Văn Sỹ), Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ), Võ Tánh ( Hoàng văn Thụ) v.vv… Những ngôi trường miền Nam nổi tiếng một thời, mang tên vua chúa và các khai quốc công thần triều Nguyễn cũng chịu chung số phận bị xóa tên như Gia Long, Petrus Ký, Lê Văn Duyệt, Trịnh Hoài Đức, Châu Văn Tiếp, Phan Thanh Giản …Đặc biệt địa danh “Gia Định” để chỉ một vùng đất là thủ phủ miền Nam đã tồn tại hơn 200 năm cũng bị xóa mất. Sách giáo khoa và tham khảo trong nhà trường phổ thông dùng những từ ngữ hết sức “cay nghiệt” khi nói về các vua chúa nhà Nguyễn :
 
“…Triều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng dựng lên bằng một cuộc chiến tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm lược của người nước ngoài. Gia Long lên làm vua lập nên triều Nguyễn sau khi đàn áp cuộc chiến tranh cách mạng của nông dân… Triều Nguyễn là vương triều tối phản động… Bản chất cực kỳ phản động của chế độ nhà Nguyễn bộc lộ rõ ngay từ đầu qua những hành động khủng bố, trả thù vô cùng đê hèn của Nguyễn Ánh đối với các lãnh tụ nông dân và những người thuộc phái Tây Sơn kể cả phụ nữ và trẻ em…”
“Chính quyển nhà Nguyễn hoàn toàn đối lập với nhân dân và dân tộc. Nó chỉ đại diện cho quyền lợi của những thế lực phong kiến phản động, tàn tạ, nó không có cơ sở xã hội nào khác ngoài giai cấp địa chủ. Vì vậy, các vua nhà Nguyễn từ Gia Long (1802-1819) đến Minh Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847),Tự Đức (1847-1883) đều rất sợ nhân dân và lo lắng đề phòng các hành động lật đổ. Chính vì khiếp nhược trước phong trào nhân dân mà nhà Nguyễn không dám đóng đô ở Thăng Long, phải dời vào Huế”.
 

Thứ Hai, 12 tháng 5, 2025

HIỆN TƯỢNG DUYÊN ANH - Huỳnh Phan Anh

Trong khảo luận Huỳnh Phan Anh đặt câu hỏi: “Những người đọc trẻ tuổi của Duyên Anh, thật ra họ đã tìm kiếm cái gì trong trang sách của ông, và họ đã bắt gặp cái gì?”
Và ông trả lời: “…theo tôi rất đơn giản. Họ (độc giả trẻ tuổi của Duyên Anh) tìm kiếm chính hình ảnh của họ, chính thế giới của họ. Họ tìm kiếm chính họ.”
 

Cá nhân tôi không mấy đồng ý. Chúng tôi, những độc giả nhi đồng lúc đó làm sao biết mình là ai để tìm kiếm chính mình? Lứa tuổi thiếu nhi chưa biết tìm hình ảnh của mình nhưng ngược lại ước ao làm Bồn Lừa đá banh tài hoa dù chưa từng lên Ban Mê Thuột; mơ thành Người Quang Trung cầm quân; ước sau này lớn cũng có một người bạn gái cùng dạo phố khuya đếm những bóng đèn đường đêm Giáng sinh, như Chương với Phượng trong Phượng Vỹ ở Thái Bình.
Độc giả tuổi nhỏ không tìm kiếm chính hình ảnh của mình mà ước sao những hình ảnh Duyên Anh tạo ra sẽ xảy đến với mình. Điều đó gọi là mộng mơ.
                                                                                         Anh Trinh

NHÀ THƠ HỮU LOAN KHÓC GIỮA SÀI GÒN… - Cung Tích Biền


Nhà thơ Hữu Loan

Thật hạnh ngộ khi chúng tôi được gặp nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim, cùng một số vị trong vụ án Nhân văn – Giai phẩm, những năm từ 1957 về sau, trên đất Bắc.
 
Sau tháng Tư 1975, trước khi nhà thơ Hữu Loan có dịp vào Nam, đã có một số thân hữu từ miền Nam ra Bắc thăm ông. Khó có thể mô tả cảnh nghèo khó của gia đình ông thuở ấy, lại khó hình dung ra cái tình cảnh cô đơn của một Hữu Loan bị chính quyền cô lập trong bao nhiêu năm.
 
Nhà văn Cung Tích Biền

Ông vào thăm Sàigòn khá muộn màng, có thể do điều kiện kinh tế quá khó khăn. Anh em chúng tôi có dàn xếp một ngày để tiếp ông. Cà phê sáng, dùng cơm trưa, buổi chiều đưa ông đi dạo chơi đó đây. Thuở ấy chỉ toàn xe đạp, sang trọng tí chút là xe gắn máy. Ông rất hồi hộp khi ngồi yên sau xe gắn máy. Ông luôn bảo “Đèo nhau xe đạp, chậm rãi, thì bình an hơn”.
 

MỘT THỜI XE THAN – Đinh Hoa Lư



Nhớ về ngày đó, cứ độ tết đến xuân đó là lúc mọi người lo chạy "đáo đôn" mục đích làm sao có mấy ngày ăn tết đầy đủ. Cảnh xa nhà như giới giới công nhân lo chuyện về quê, sinh viên có dịp nghỉ học...ai cũng lo chuyện về nhà ăn tết, bù lại bao ngày làm việc quần quật hay miệt mài học tập ở chốn thành đô.
   
Hai chữ VỀ QUÊ gắn liền nỗi âu lo với cái vé xe đò. Hôm nay phương tiện đi lại quá ư đầy đủ, hiện đại, lớp trẻ sinh sau khó lòng tưởng tượng ra nỗi khổ ngày trước. Thời nay, thừa cung hơn cầu, nhất là cái chuyện đi lại đó đây thật quá dễ dàng. Bà con khỏi cần đưa tay nhấc cái máy điện thoại như mấy năm trước, mà chỉ cần 'bấm chọt' vào cái Iphone, chút chi thì có chiếc xe đời mới tới ngay trước nhà đón mình. Nếu phải tới bến xe thì chẳng cần chen chúc mua vé như xưa, lại còn ngồi thoải mái trên hàng ghế nệm êm ru... chưa kể đến máy bay, một hình ảnh bà con mình ngày xưa làm sao nghĩ tới? Nhưng thời này, máy bay bay quốc nội, quốc ngoại đầy đủ toàn là "phản lực" mới ngon!

ĐƯỜNG MÂY TRẮNG GỌI – Thơ Tịnh Bình


  

 
ĐƯỜNG MÂY TRẮNG GỌI
 
Giọt nước nào rơi xuống
Hạt bụi nào bay lên
Nỗi buồn như rất thật
Sao chẳng thể thành tên...
 
Phiến mây trầm u uất
Lạc về đâu mưa nguồn
Lũ ve ngày tháng hạ
Dóng dả tựa hồi chuông
 
Triệu bước đi mải miết
Trên con đường ngàn năm
Trong vô vàn gương mặt
Đâu chân diện mục mình ?
 
Người rong chơi sáu cõi
Đã đến và rời xa
Dưới bóng cây cổ thụ
Hoài niệm ánh trăng già
 
Đời ta sương lá cỏ
Trước bình minh cúi đầu
Đường xưa mây trắng gọi
Đã qua rồi bể dâu...
 
                        Tịnh Bình
                        (Tây Ninh)