BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 26 tháng 12, 2025

MẶT TRỜI LÊN HOA NỞ EM YÊU À EM YÊU - Trần Vấn Lệ


 
Trước Noel thường vậy:  Trời đẹp như mùa Xuân!  Chỉ sợ sau Noel, mùa Đông... mùa của Tết!
 
Bây giờ thì... có rét nhưng mà có lẽ vui vì nghĩ đến Ông Trời giáng sinh trên trái đất!
 
Tất cả đều Sự Thật, có phải không em yêu?  Hai ngàn năm chưa nhiều... thì chúng mình mong tiếp!
 
Thế giới đang thiêm thiếp, tôi vén mây mặt trời cho bình minh khắp nơi đẹp như em yêu quý!
 
Hòa bình nửa Thế Kỷ, mộng mơ còn suốt đời... Tự dưng tôi nghẹn lời nhớ những người bỏ cuộc!
 
Họ - những người đi trước, bao giờ... tới kiếp sau?  Bây giờ... vẫn nôn nao:  đêm mai, Chúa xuất hiện!
 
*
Hỡi những người trên biển Bình Minh Thời Lênh Đênh!
Có nhiều chuyện muốn quên... thật lòng muốn quên hết!
 
Hơn tháng nữa là Tết... Bao Nhiêu Người Tha Hương?
Họ sẽ Hết Giữa Đường?  Họ Về Lại Cố Xứ?
 
Mặt trời lên, hoa nở.  Em yêu à, Em yêu... diễm kiều từng nhánh liếu đẹp như tuổi niên thiếu chúng-ta-trên-cánh-đồng! 
 
... rồi đi nhặt hoa vông ở Vườn Bông Phan Thiết! 
                                                                                     Trần Vấn Lệ

VÀI TÂM SỰ VỀ CUNG ĐIỀN TRẠCH VÀ CÁI DUYÊN CƯ NGỤ - Đặng Xuân Xuyến



Trong lá số Tử Vi, cung Điền Trạch chính là cái “giỏ” đựng nhà đất của mỗi người. Khi đã đi qua đủ những thăng trầm để tin vào sự an bài của định mệnh, đủ tĩnh tại để thấu hiểu lẽ nhân quả, ta sẽ nhận ra ngôi nhà không chỉ được xây bằng gạch đá, vôi vữa mà nó được dựng lên từ chính cái Phúc Đức hay Nghiệp Quả của mỗi người. Thế nên, việc cố tìm một chốn an cư hoàn hảo về phong thủy hay vắt kiệt tâm trí tìm kiếm địa thế đại cát, đôi khi lại chỉ là việc “Dã tràng xe cát” trước những sắp đặt của số phận. Phong thủy thực sự không nằm ở hướng cửa, màu sơn mà nằm ngay trong cái “giỏ” Điền Trạch mà ta đã tự tay đan dệt từ bao tiền kiếp. Nói thế, không có nghĩa là ta cứ mặc kệ cho số phận đưa đẩy. Khi phúc chưa đủ dày, việc cưỡng cầu những điều quá tầm tay thì cũng chỉ như “Dã tràng xe cát” nhưng nếu ta biết chăm chút cho gian nhà thêm ngăn nắp, sửa sang góc khuyết cho dòng khí luân chuyển hợp lý thì chính sự vun vén ấy sẽ bồi đắp thêm năng lượng cho mảnh đất mình cư ngụ. Một ngôi nhà mái tranh vách đất nếu lòng người an định và biết cách sắp đặt cho hài hòa, ấm cúng thì tự khắc đất ấy cũng hóa đất lành.
 

THẢO THƠM – Thơ Lê Kim Thượng


   

Thảo Thơm
 
1.
Xa rồi… nhớ mãi miền quê
Con tim thao thức nhớ về… “Ngày xưa…”
Mồng tơi, rau má, canh cua
Cải ngồng, cà pháo muối dưa cơm chiều
Ruộng đồng hôm sớm bao điều
Mẹ Cha chăm chút bao nhiêu cho vừa
Ngày dài không quản sớm trưa
Đông về rét buốt, nắng mưa trưa hè
Quê chiều rộn rã tiếng ve
Đôi bò thong thả kéo xe trên đồng
Bên núi rừng, bên dòng sông
Mùi quê, mùi đất bềnh bồng tỏa hương
Thân gầy nhuộm nắng, nhuộm sương
Cái cò lặn lội thân thương trên đồng
Khi mưa gió, lúc bão giông
Mẹ hiền gian khổ lo chồng, lo con…
 

GIẢI MẬT TIẾU NGẠO GIANG HỒ KỲ I - Bài viết của Nguyễn Xuân Đoài



Tiếu ngạo giang hồ là bộ trường thiên tiểu thuyết trác tuyệt của Kim lão tiền bối, một bộ truyện mà lạ thay, hai phái chính tà rốt cuộc đều rặt một lũ ác nhân. Hai nhân vật nam chính và nữ chính của bộ truyện (Lệnh Hồ Xung và Nhậm Doanh Doanh) được xây dựng nhạt nhẽo, trong khi các nhân vật tà ác lại được tác giả chăm chút, khắc họa cực kỳ tỉ mỉ: Đông Phương Bất Bại, Nhậm Ngã Hành, Tả Lãnh Thiền, Nhạc Bất Quần, Lâm Bình Chi... Sau khi bộ truyện này ra đời, Kim lão tiền bối bị cả hai phe Mao, Tưởng chung tay lên án, bởi đơn giản, Tiếu ngạo giang hồ không đơn thuần là truyện chưởng mà là một “tiểu thuyết chính trị”, trong đó Mao đảng được coi là nguyên mẫu của Nhật Nguyệt thần giáo.
 

Thứ Ba, 23 tháng 12, 2025

XÉT LẠI VAI TRÒ CỦA TRẦN QUỐC TUẤN - Tác giả Lê Huy Vinh

                    Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả
 

Trên trang hải ngoại nọ, có câu đối độc đáo, không đề tên tác giả:
 
Địa chuyển ngã Việt chủng cư Bắc phương, Âu châu cảnh nội vô Mông kỵ tung hoành thiên vạn lý;

(Đất Việt mà dời sang phương Bắc, cõi Âu châu đã không có kỵ binh Mông Cổ tung hoành vạn dặm)
 
Thiên sinh thử lương tài ư Tống thất, Trung quốc sử tiền miễn Nguyên triều đô hộ nhất bách niên.

(Trời sinh tài lành này vào nhà Tống, lịch sử Trung Hoa trước đây đã khỏi phải quân Nguyên đô hộ cả trăm năm).
 
Câu đối không nêu tên nhân vật, nhưng nghe qua ai cũng đoán được, chính là vịnh Trần Quốc Tuấn, tức Hưng Đạo đại vương. Theo đó mà suy thì dân tộc ta thật may mắn mới sản sinh được bậc thần tướng lỗi lạc dường ấy, nhưng ấy cũng là vận rủi cho đại vương vì phải thác sinh vào đất nước này; giá sinh ra ở Tây Tàu, hẳn công nghiệp ngài còn rạng rỡ không biết ngần nào. Thế kỷ XXI, Việt Nam chuẩn bị xuất khẩu… danh tướng rồi chăng?
 
Những lời ca ngợi Thánh Trần thật đã tràn lan xích đạo. Nếu ví Hưng Đạo vương như con rồng thần, thì mây vờn ngũ sắc huyền ảo che phủ mình rồng còn dày hơn cả vảy thực của rồng. 700 năm qua là hơn 30 thế hệ, hết lớp này đến lớp khác liên tục thay nhau vun đắp bát hương cho hình tượng Thánh Trần, mấy ai ngậm ngùi cùng bi kịch lớn của đời ông.
 

PAUL NGUYỄN HOÀNG ĐỨC: GÃ HỀ MỘNG DU TRONG VŨNG BÙN HOANG TƯỞNG – Đặng Xuân Xuyến



Trong giới cầm bút, đôi khi người ta bắt gặp những hiện tượng kỳ lạ đến mức khó tin, mà Paul Nguyễn Hoàng Đức là một điển hình cho sự lệch lạc giữa ảo tưởng và thực tế. Cái danh xưng tự phong “Triết gia số 1 châu Á” hay “người khổng lồ”, “người danh tài” mà Đức luôn miệng rêu rao, tự nhận, thực chất chỉ là một màn kịch vụng về của sự hoang tưởng. Đó là một kiểu “hồn nhiên” đến nực cười, giống như kẻ tự khoác lên mình chiếc áo hoàng bào quá khổ, rồi đứng trước gương tự vái lạy chính mình trong những cơn lên đồng tự mãn.

NGƯỜI XƯA NAY MẤY TUỔI CÒN CONG KHÔNG CHÂN MÀY – Trần Trung Tá



Bạn nói thơ tôi buồn...Tôi biết nói gì hơn?  Đưa cho bạn, bạn đọc, buồn thơ, hay buồn mình?
 
Mà, nếu bạn làm thinh thì tôi làm sao nhỉ?  Hay chỉ nói:  Thôi kệ, làm được thơ là Hay!
 
Hay... nghĩa là bóng mây / bay qua thềm mưa rớt?  Xưa, nói mưa-ba-hột, nay nói mưa-bóng-mây!
 
Tôi ngửa hai bàn tay / hứng mưa, thèm nhỏ lại / giống như hồi lên bảy, giống cái thuở lên mười...
 
Đi học về thật vui... không màng quần áo ướt, có mưa chơi là được / vui suốt con đường về...
 
Hồi đó không nghĩ chi / đến trận đòn "ai biểu".  Hồi đó, nhỏ, chỉ hiểu... mưa là vì có mây!
 
*
Tôi úp mặt vào tay... khi không mà mình lớn... mình nhớ ai hàng xóm bỏ mình đi sang sông!
 
Mình, chàng trai lông bông, rồi thì mình vào lính.  Đạn bắn không ai tránh / vì đạn bắn... tránh người...
 
Mình qua tuổi lên mười.  Mình Hai Mươi, mình lớn... Dòng sông cứ cuồn cuộn / và dòng đời trôi theo...
 
Tự dưng có một chiều / mình ngồi trong rào kẽm... hỏi sao viên đạn xém / trúng mình để bay xa?
 
Tự dưng chữ Thái Hòa / viết ràn rụa nước mắt... Ai qua sông, mái tóc / còn bay bay trong mơ!
 
Tự dưng có ai ngờ, mình làm thơ buồn bả.  Bạn đọc, không nói quá: "Thơ mày không có Hay!".
 
Con sông thành sông mây.  Biển rừng trời sương khói...  Người xưa nay mấy tuổi / còn cong không chân mày?
 
Người-xưa-nay-mấy-tuổi-còn-cong-không-chân-mày?
 
                                                                                  Trần Trung Tá

PHÍA BAN MAI, VỚI THÁNG MƯỜI HAI – Thơ Tịnh Bình


   

       PHÍA BAN MAI

Đành rằng mưa hết bão tan
Đành rằng chút nắng ửng vàng mới lên
Qua rồi mưa nắng chông chênh
Sao chưa nghe thấy rộng thênh cõi lòng
 
Còn mong cây lúa vàng bông
Mùa no ấm với ngày đông đang về
Cánh đồng giáp hạt nói mê
Chim chiều lả cánh rủ rê đường trời
 
Qua rồi cay đắng đầy vơi
Mọc lên những tiếng nói cười thiết tha
Đời quê tình đất đơm hoa
Đôi bàn tay nhỏ bao la tấm lòng
 
Chim kêu rộn giữa bầu không
Ban mai nắng nhuộm để nồng nàn tôi...

Thứ Hai, 22 tháng 12, 2025

“CON CHÓ CỦA TĂNG THANH HÀ ĐÃ CHẾT”! - Lưu Nhi Dũ

Là tựa đề của nhiều bài báo viết về số phận hẩm hiu - chú chó của Tăng Thanh Hà qua đời mà nhiều báo đăng mấy hôm nay. Và ngay lập tức ca sĩ Lệ Quyên chơi bản bolero mùi mẫn khóc thương chú cún này!  


Nghĩ cũng lạ, rất lạ, số phận của một bộ trưởng một bộ cực kỳ quan trọng trong thời kỳ chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới mà chả ai quan tâm. Báo chí đưa lên rồi rút xuống, rút xuống rồi lại đưa lên, nhưng thua xa cái tin giựt gân “Con chó của Tăng Thanh Hà đã chết!”.
 
Và cũng lạ, có báo đưa tin chó chết; chia buồn cùng Tăng Thanh Hà làm như nhà người ta có chuyện khó, rồi cảm thấy mắc cỡ lại rút xuống! Thiệt chó má!

HUYẾT DỤ - Bài viết của Khánh Ly, Tri Thư Đạt Lễ



“Khóm lăng khóm huệ nên hàng
 Cúc hoa nấu hoàng lễ khắp ngoài sân
 Màn trướng tán lục tần vần
 Huyết dụ áo lía để chân đứng bầy.”
                        (Phùng Khắc Khoan)
 
Huyết dụ, hay còn gọi là phát dụ, thiết thụ, long huyết,... tên khoa học Cordyline Terminalis Kunth, vốn là cây thân thảo lâu năm, cao chừng một đến hai thước, thân mảnh có nhiều vết sẹo lá rụng. Lá mọc tập trung ở ngọn, hình lưỡi kiếm, dày và dài, có loại đỏ tía cả hai mặt, cũng có loại một mặt đỏ, một mặt xanh. Hoa màu trắng pha tím, nhỏ li ti, quả tròn và mọng. Cây huyết dụ thường mọc hoang khắp các vùng quê Việt Nam.
 

NGƯỜI CÓ CHỨC QUAN CAO NHẤT TRONG THỜI CHỐNG MÔNG NGUYÊN - Bài viết của Việt Dũng Vũ



Người có chức quan cao nhất trong thời chống Mông Nguyên không phải là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mà là ông Trần Quang Khải.
Trần Quang Khải là con vua Trần Cảnh, em trai vua Trần Hoảng, chú vua Trần Khâm. Chức tước của ông là: Thái Sư Thượng Tướng Quân Chiêu Minh Đại Vương.
Đại Vương là tước vị cao nhất trong hệ thống quý tộc.
Thái Sư là quan đứng đầu ban văn.
Thượng Tướng Quân là quan đứng đầu ban võ.
Nói chung trong triều đình thì ông Trần Quang Khải là to nhất rồi, chỉ dưới vua mà thôi.
 

Chủ Nhật, 21 tháng 12, 2025

TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI - Mạnh Kim



Không còn nhớ ai là người đầu tiên dịch “Gone with the wind” thành “Cuốn theo chiều gió”, nhưng vị nào dịch câu này hẳn nhiên là bậc thượng thừa về ngôn ngữ nói chung và rất giỏi tiếng Việt nói riêng.
Ông Huỳnh Phan Anh cũng khắc tên mình vào bảng mạ vàng khi dịch “For whom the bell tolls” thành “Chuông nguyện hồn ai” (phải là “nguyện”, chứ không phải “gọi” – như các bản dịch sau 1975, nghe mới “đã” và mới đúng với ý như câu chuyện của tác phẩm Hemingway).

Cụ Bùi Giáng cũng thuộc vào nhóm người “giáng thế” khi dịch “Terre des Hommes” (Vùng đất của người) thành “Cõi người ta”.
Cụ Phạm Duy là một bậc tài hoa xuất chúng nữa với các tác phẩm chuyển ngữ lời Việt.  Ca khúc “The house of the rising sun” đã được cụ chuyển thành “Chiều vàng dưới mái nhà tranh”.

So sánh từng câu từng từ trong các ca khúc chuyển ngữ của thiên tài Phạm Duy, không thể nói gì hơn ngoài sự kính phục tột bậc.
Trong Love Story, ca khúc rất phổ biến Sài Gòn thập niên 1970 mà cụ Phạm chuyển ngữ, có những từ được diễn đạt mà chỉ những bậc thượng thừa tiếng Việt mới thể hiện nổi, chẳng hạn “this empty world” thành “cuộc đời vắng ngắt”; hoặc “wild imaginings” thành “mộng huyền mênh mang”

Có một điểm chung giữa những bậc kỳ tài Phạm Duy, Bùi Giáng hoặc vô số văn sĩ, nhạc sĩ cùng thời với họ, là: “Tôi yêu tiếng nước tôi!”.
Chỉ những người thật sự yêu quý tiếng nói của dân tộc mình mới biết cách làm đẹp ngôn ngữ.
Họ nhảy múa với ngôn ngữ.
Họ thăng hoa với ngôn ngữ.
Họ bay bổng với ngôn ngữ.

BAO LA, BÁT NGÁT HAY LÀ MÊNH MÔNG... – Thơ Phan Quỳ


   

Lá vẫn xanh màu ngoài kia muôn thuở.
Tình vẫn đầy như buổi nọ ban sơ.
Mà da bỗng nhăn, chân yếu, mắt mờ.
Lòng thầm trách thời gian ôi nghiệt ngã.
 
Nắng vẫn lên một màu vàng óng ả
Mấy tơ trời vương vấn giữa cành si.
Chích bông ơi vui bước nhảy nhót gì
Có hay chăng một tâm tình bên cửa?
 
Người đứng lặng giữa muôn trùng sóng vỗ
Trong thinh không như biển cả vọng về.
Trần gian nầy dẫu thôi hết đam mê
Vẫn lộng lẫy một vùng trời ký ức.
 
Có ồn ào buồn vui cùng nước mắt
Có lặng im hờn dỗi cả trời khuya
Có sao đêm nhè nhẹ tiễn chân đi
Có sương sớm trên mắt người chờ đợi.
 
Người hay chăng, nhớ thương là vời vợi
Là phố phường hoang vắng mãi chen nhau
Là tháng ba cùng tháng bảy mưa ngâu
Là mắt lệ rưng hoài trên mi mỏi.
 
Là tình đẹp nên tình nồng không tuổi
Là tay buồn đưa mãi giữa trời không
Là bao la, hay bát ngát, mênh mông
Là ngôn ngữ chẳng bao giờ nói hết
 
Là bước khẽ giữa ngày thu diễm tuyệt
Là lắng nghe trong im ắng vô cùng
Chuyện đất trời xanh biếc những tình chung.
 
                                                      Phan Quỳ

THƯ CHÚA NGUYỄN GỬI MẠC PHỦ NHẬT BẢN



Bức thư chúa Nguyễn gửi cho Mạc Phủ Nhật Bản, thời điểm là ngày 13 tháng 6 niên hiệu Chính Hòa [niên hiệu của vua Lê Hy Tông (1680-1705)]. Theo cụm từ Chính Hòa diên niên 正和延年 có thể là chúa Nguyễn Phúc Chu [trị vì 1691 - 1725]. Thời điểm này, bên Nhật Bản là Thiên Hoàng Higashiyama [Thiên Hoàng Đông Sơn東山天皇], và Chinh Di đại tướng quân [Mạc Phủ] là Tokugawa Tsunayoshi [徳川綱吉 Đức Xuyên Cương Cát].

Thứ Bảy, 20 tháng 12, 2025

LOẠN 12 SỨ QUÂN CÓ THẬT KHÔNG ? - Bài viết của Quang Manh Lê



Well, đọc câu hỏi này khá ngớ ngẩn, ai cũng biết đây là một sự kiện lịch sử xảy ra vào thế kỷ thứ 10 mà diễn biến của nó theo các nguồn sử liệu truyền thống thì xảy ra sau khi nhà Ngô mất sau cái chết của Ngô Xương Văn vào năm 965, Đinh Bộ Lĩnh nổi lên dẹp tan những sứ quân khác, thống nhất đất nước lập ra nhà Đinh vào năm 968, tức là vỏn vẹn chỉ có đâu đó khoảng 3 năm.
 
Nguyên cách hiểu truyền thống đã mâu thuẫn nghiêm trọng với tài liệu lịch sử, rằng ĐVSKTT chép Đinh Bộ Lĩnh cát cứ chống nhà Ngô từ năm 951, tức là gần 15 năm trước cái chết của Ngô Xương Văn, hai anh em Thiên Sách Vương và Nam Tấn Vương cũng từng mang quân tấn công Hoa Lư - căn cứ của họ Đinh, như vậy không những Đinh Bộ Lĩnh là một sứ quân đúng nghĩa, mà còn là sứ quân nổi dậy sớm nhất, bởi các sứ quân về sau hầu như chỉ xuất hiện sau phi vụ Lã Xử Bình nổi loạn, đoạt quân quyền của họ Ngô và chiếm Cổ Loa.

Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2025

VIỆC HÁT SAI CA TỪ CỦA CA SĨ - Bài viết của Song Thao


Bìa cuốn “Thơ và Ca Từ » của Nguyễn Đình Toàn
 
Trong một đêm nhạc thính phòng trình bày nhạc Từ Công Phụng và Ngô Thụy Miên được tổ chức tại Vancouver, Canada, ít năm trước đây với sự có mặt của hai nhạc sĩ, tôi có tham dự. Phần đầu các ca sĩ hát nhạc của họ Từ, phần sau nhạc của họ Ngô, có nghỉ giải lao ở giữa. Trong giờ giải lao, tôi vào sau sân khấu để hàn huyên với ca sĩ Diễm Liên. Chúng tôi đang nói chuyện thì nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đi ngang qua, nói với Diễm Liên: “Nhớ hát đúng lời nhạc nhé!”. Diễm Liên le lưỡi, cười. Tôi giữ ý đi ra cho cô…ôn bài.

Hàn huyên với Diễm Liên.

ĐẠI CATHAY: HUYỀN THOẠI GIANG HỒ SÀI GÒN… - Bài viết của Việt Luận Viet's Herald


Đại Cathay huyền thoại giang hồ Sài Gòn trước 1975

Đến thập niên 60, nổi bật nhất trong giới giang hồ có Đại Cathay. Người ta nói nhiều về một Đại Cathay, với mái tóc bồng bềnh, quần Jean, giày cao cổ “đờ-mi-bốt”, trên môi không rời điều thuốc và chiếc hộp quyẹt Zippo...
 
Những gì mà Đại Cathay đã tạo dựng chỗ đứng của mình trong giới giang hồ thật khác biệt và đã trở thành… huyền thoại. Đối với Đại Cathay, sự liều lĩnh không được đánh giá cao bằng lối sống “giang hồ tình nghĩa”.

Thứ Năm, 18 tháng 12, 2025

KÍNH GỞI T.T.KH. (2) – Thơ Phan Quỳ

 
   

Rồi những chiều thu nắng nhạt mờ
Tôi ngồi xếp lại những phong thư
Hồng, xanh, tím, biếc bao nhung nhớ
Tôi ngỡ người về giữa cơn mưa.
 
Tôi nhặt hoa rơi buổi sang mùa.
 Ghép lại đầy tay mảnh tình xưa.
Hoa xinh rã cánh, ôi từng cánh
Tôi ngỡ tim hồng giữa đêm mơ.
 
Tôi gọi người về cả giấc trưa
Tôi đem cơn mộng dệt ơ hờ
Lặng lẽ bên đời bên người mới
Đã chết lâu rồi những dòng thơ.
 
Tôi chẳng còn ngoan, đã quá hư
Đã đem nồng ấm buổi ban sơ
Trao hết một người nơi cuối nẻo
Để lạnh nơi nầy, lạnh thiên thu.
 
                                   Phan Quỳ

Thứ Hai, 15 tháng 12, 2025

BAO LA, MÊNH MÔNG, BÁT NGÁT GIỐNG VÀ KHÁC NHAU NHƯ THẾ NÀO? La Thụy sưu tầm và biên tập



BAO LA
 
Chúng ta thường dùng “bao la” để chỉ thứ gì đó “rộng lớn đến mức vô cùng tận” (Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên), chẳng hạn như “vũ trụ bao la”, “biển rộng bao la”… Tuy nhiên, nghĩa đen của từ này không hẳn ai cũng rõ.
 
Thực tế, “bao la” là một từ gốc Hán, vốn có Hán tự là 包羅. Trong đó:
Bao” () là “bọc, gói”, cũng là “bao" trong “bao quát”, “bao hàm”
La” () nghĩa là “cái lưới”, cũng là “la" trong “thiên la địa võng”, “la liệt".
Như vậy, “bao la” có thể được hiểu một cách đơn giản là “cái lưới dùng để bao bọc tất cả”.
 
Nói đến không gian rộng lớn, ta còn có từ “bát ngát". Thực tế, từ này vốn có nghĩa gốc là “thương nhớ, lo buồn" (xem Tiếng Việt ân tình, tập 1)
Tóm lại, “bao la” là một từ gốc Hán, có nghĩa đen là “cái lưới bao trùm tất cả”.
                                                                                Lê Trọng Nghĩa
 
Bao la” là một từ gốc Hán, vốn có Hán tự là 包羅. Trong đó:
Bao” () là “bọc, gói”, cũng là “bao" trong “bao quát”, “bao hàm”
La” () nghĩa là “cái lưới”, cũng là “la" trong “thiên la địa võng”, “la liệt".
Như vậy, “bao la” có thể được hiểu một cách đơn giản là “cái lưới dùng để bao bọc tất cả”.

*
Phiếm luận của La Thụy:
 
Từ định nghĩa trên, tôi liên tưởng đến Thánh kinh: “Ta là Alpha (A) và là Ômêga(Ω), là Khởi nguyên và là Cùng tận!”
Điều này nói lên rằng Vua Giêsu Kitô là căn nguyên và cùng đích của mọi loài. Trước khi tạo dựng vũ trụ này, Người đã hiện hữu; và khi vũ trụ này qua đi, người vẫn hiện hữu.
Chúa là Vua Vũ Trụ, Chúa là Alpha và Ômêga, là Đấng Toàn Năng.

NHỚ VÀ THƯƠNG TẤT CẢ ĐỌNG THÀNH SƯƠNG – Thơ Trần Vấn Lệ


 

Mở cửa ngó ra đường:  không thấy
cái-gì-hơn ngoài cái trắng-sương-mù!
Trời sang Đông, đâu còn nữa mùa Thu
sao sương đọng... như nỗi-buồn-thế-kỷ?
 
Sáu giờ sáng, trời mit mù như thế
mặt trời sao, có thức dậy được không?
Nam - Bắc - Tây - Đông!  Một vòng hư ảo
cái áo này ai mặc dạo Noel?
 
Thế Chiến. Thứ Nhất, năm năm không thêm!
Thế Chiến Thứ Hai, sáu năm vừa đủ
Hai cái chấm mờ trong Thế Kỷ Hai Mươi!
Chiến Tranh Mình thì Trời Ơi Trời Qươi...
 
Nó bắt đầu từ khi Lập Quốc
Nó kéo dài, nối tiếp bốn ngàn năm!
Nó là cái mặt đăm đăm,
nó là hai bàn tay đầy máu!
 
... Giống như hôm nay:  Sương Mù Đi Dạo
Ướt sũng cờ bay không thây lối Tương Lai!
 
*
Nếu còn Ba tôi - tôi chắc Ba tôi thở dài!
Nếu Còn Má tôi - tôi chắc Má tôi ngồi hoài trong bếp..
Chúng ta đuổi nhau, đuổi hoài không kịp
xếp mù sương để đút túi quần!
 
Tôi ngó ra sân
ngó ra đường - thăm thẳm!
Sáng nay sương như nặng lắm nỗi niềm?
Không một tiếng chim...
 
Chiếc xe bus tới trạm, đứng im
một phút thôi rồi chạy...
Em à em, sáng nay anh thấy:
Nhớ và Thương tất cả đọng thành Sương!
 
                                             Trần Vấn Lệ

VÌ SAO NHÀ NGUYỄN ĐẶT TÊN CHO MIỀN NAM LÀ NAM KỲ LỤC TỈNH? – Hùng Ca Sử Việt giới thiệu



Miền Nam ngày xưa được gọi là Nam kỳ lục tỉnh, vậy Nam kỳ lục tỉnh là những tỉnh nào?

Sau khi cụ Lê Văn Duyệt mất, Gia Định Trấn (Gia Định Thành) mới bị bãi bỏ, miền Nam lúc đó được chia thành 6 tỉnh, theo thứ tự từ Bắc chí Nam là: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
Địa danh Nam Kỳ Lục Tỉnh có từ đó.
Theo Nguyễn Q. Thắng, nhà Nguyễn đặt tên lục tỉnh dựa theo 6 từ cuối của một câu thơ cổ:
 
Khoái mã gia biên vĩnh định an hà
(Phóng ngựa ra roi giữ yên non nước).
 
Theo đó, nhà Nguyễn đã lấy 6 chữ cuối của câu thơ trên để đặt tên cho 6 tỉnh Gia Định, Biên hoà, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang và Hà Tiên.
(Trịnh Hoài Đức, một trong Gia Định tam gia, Nam Bộ xưa và nay, NXB TP. HCM, 2005, tr. 147).
                                                        HÙNG CA SỬ VIỆT giới thiệu
*
Nguồn:
https://www.topdulichtrainghiem.com/2019/01/tim-hieu-oi-net-ve-nam-ky-luc-tinh.html?

Gia-Định cư đầu mở cõi Nam,
Biên-Hòa tiếp địa khoát giang lưu.
Vĩnh-Long túc mạch nghìn năm vượng,
Định-Tường an cơ túc thánh hầu.
An-Giang địa linh sinh nghĩa sĩ,
Hà-Tiên sơn tú xuất anh phàm.
Nam Kỳ tự cổ sinh linh khí,
Lục tỉnh thiên cảm tụ anh châu.
                                     Hai Do
 
Nam tuần khoái mã gia biên,
Chinh yên vĩnh định thiên niên an hà…

Chủ Nhật, 14 tháng 12, 2025

“NỖI BUỒN CHIẾN TRANH”, KHI VĂN CHƯƠNG VƯỢT KHỎI CHÍNH NGƯỜI VIẾT – Phạm Ba



“Bảo Ninh trong Nỗi buồn chiến tranh và Bảo Ninh ngoài đời không giống nhau.”
Nhận xét ấy tưởng bâng quơ, nhưng thực ra đã chạm đúng vào mạch sâu nhất của tác phẩm và thậm chí vào bi kịch tinh thần của chính tác giả.

Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2025

KÍNH GỞI T.T.KH. (1) – Thơ Phan Quỳ


 

Một mùa đông nữa lại qua đây
Tôi đếm ngày đi đếm dấu hài
Phương trời huyễn mộng mình tôi ngóng
Một cánh thiên di nhớ lối nầy.
 
Trời ơi buốt lạnh đôi bờ vai
Hoa ơi rã cánh giữa đêm dài
Tôi đem hoa vỡ vào tim vỡ
Xa xót làm sao màu máu phai.
 
Tôi thấy tôi trôi giữa tháng ngày
Hoang vu vây phủ tận trời mây
Làm sao níu được người xa khuất.
Mà tôi cứ ngỡ về sáng nay.
 
Tôi nghe vó ngựa từ xa lại
Vẳng trong mờ mịt tiếng năm xưa
Người đi đi mãi không về nữa
Vẽ mảnh hồn đau tôi vẽ thơ.
 
                             Phan Quỳ

CUỘC ĐỜI TRUÂN CHUYÊN CỦA CA SĨ NHƯ QUỲNH – Đàng Sa Long



Đằng sau ánh hào quang của một ca sĩ lừng danh là những góc khuất về cuộc đời đầy truân chuyên mà Như Quỳnh đã trải qua.
Như Quỳnh sinh năm 1970, từng được xem là “mỹ nhân làng nhạc” khi sở hữu nhan sắc xinh đẹp cùng giọng ca ngọt hiếm có. Nhắc đến Như Quỳnh, khán giả mến mộ luôn nhớ đến loạt ca khúc trữ tình khiến bao người mê mệt như: Người tình mùa đông, Duyên phận, Hai mùa Noel, Vùng lá me bay, Chuyện hoa sim, Chuyện tình người trinh nữ tên Thi, Tiếng hát chim đa đa...

Tuy nhiên, để có được thành công như hiện tại, cô phải trải qua tuổi thơ nhiều vất vả, từng bị bạn bè kỳ thị, xa lánh bởi nhà nghèo. Trong một chương trình, nhạc sĩ Phương Uyên từng kể về gia cảnh của Như Quỳnh thuở hàn vi: "Tôi không bao giờ quên ngôi nhà của Như. Nhà gần kho đạn. Nhà nền đất, có đúng một cây đu đủ, tài sản duy nhất trong nhà. Tội nghiệp Như lắm vì cô ấy chỉ có mỗi một cái áo trắng và váy màu xanh. Như đi chơi, đi học, đi học hát cũng mặc cái đó”. Chính Như Quỳnh cũng thừa nhận vì hoàn cảnh khó khăn nên đôi khi phải mặc một bộ đồ nhiều ngày liền