LA GI, LAI LỊCH MỘT VÙNG ĐẤT
La Gi
ngày xưa là phần đất nằm dọc bờ sông Dinh có dịch trạm Thuận Phước ở làng Phước
Lộc, nằm trong hệ thống dịch trạm dưới triều Nguyễn trung hưng. Địa giới La Gi
thời ấy bao trùm phần đất của các phường xã Phước Hội, Phước Lộc, Tân Thiện, Tân
Phước, Tân An, Tân Bình, BìnhTân bây giờ… Khi thành lập huyện Hàm Tân (1916) do
trụ sở huyện đặt tại làng Hàm Tân (trước đó thuộc tổng Đức Thắng, thổ huyện Tuy
Lý- sau sáp nhập và đổi sang phủ Hàm Thuận thống hạt, tỉnh Bình Thuận) nên trở
thành tên huyện. Cũng từ đó, lỵ sở huyện Hàm Tân nằm trên địa bàn làng Hàm Tân,
tổng Phước Thắng, huyện Hàm Tân (từ năm 1910 đơn vị hành chánh Phủ và Huyện
ngang nhau). Huyện Hàm Tân được thành lập gồm 2 tổng Phong Điền và Phước Thắng
không còn trực thuộc phủ Hàm Thuận. Tổng Phong Điền có địa giới từ phía tả ngạn
sông Dinh kéo dài lên các làng Tam Tân, Hiệp Nghĩa, Phong Điền và Thạnh Mỹ,Văn
Kê. Tổng Phước Thắng từ hữu ngạn sông Dinh, gồm các làng Hàm Tân, Phước Lộc
(địa bàn La Gi) đến Cù My, Thắng Hải giáp với Xuyên Mộc.
Năm 1877, doanh điền sứ Nguyễn Thông đã
thân chinh về vùng đất hoang dã phía nam của tỉnh Bình Thuận rồi trình bức
“nghĩ thỉnh thượng du khẩn sự nghi sớ” (Sớ xin lập đồn điền khai khẩn vùng
thượng du) có nhắc đến: “…thuyền đi lúc
rạng đông từ cửa tấn LaDi nếu thuận gió xuôi buồm thì đến cửa biển Phan Thiết
phủ Hàm Thuận vào giờ ngọ hoặc giờ mùi. Xin chọn đất ở xóm Hàm Tân dựng tạm một
kho đồn điền khai khẩn, tính toán số gạo muối tiền thóc cần thiết rồi đem
thuyền chở nộp cho tỉnh, thì chở đến kho tạm ở Hàm Tân rồi dùng thuyền đến đó
chở đi cũng tiện”. Từ đó, với sức khai phá và tính cần cù, những người tứ
xứ nói trên đã biến vùng đất màu mỡ này thành các làng mạc sầm uất.Có thể coi địa
danh La Gi và Hàm Tân đã đồng hành suốt chiều dài lịch sử hình thành một vùng
đất giàu sự tích cho đến hôm nay.
Địa hình La Gi được thiên nhiên cấu tạo
đa dạng gồm nhiều mỏm đồi thoai thoải, lượn sóng thấp dần theo hướng bắc nam
tạo ra mạng lưới sông suối rải khắp đồng bằng ven biển. Sông lớn có sông Phan
tên xưa là Ma Ly phát nguồn từ núi Tiên Tỉnh có phụ lưu từ núi Tà Cú nhập vào
tại Cây Cốc - còn gọi là sông Đợt chảy ra cửa Ba Đăng (Tân Hải). Sông Dinh còn
gọi là sông La Di từ nguồn Núi Ông chảy ra cửa biển La Gi và các con sông lưu
lượng nhỏ như sông Kô Kiều, sông Trạm, sông Chùa ở Tân Thắng- Thắng Hải. Núi
tương đối cao có núi Bể (874m) và núi Nhọn (570m). Ngày trước vốn rừng tự nhiên
ở Hàm Tân (cũ) rất lớn, hầu như bao bọc cả huyện, tiếp giáp tận bờ biển và nối
liền với rừng miền Đông Nam bộ. Ngày nay rừng La Gi/ Hàm Tân không còn các loại
gỗ quí như cẩm lai, gõ đỏ, giáng hương, bằng lăng, sao, dầu... và lâm sản dầu
rái, lá buông, song mây là nguồn nguyên liệu phổ biến trong sản xuất hàng thủ
công mỹ nghệ và cung ứng nhu cầu sửa chữa ghe thuyền.
Sau bao nhiêu năm chiến tranh tàn phá,
dưới chế độ VNCH có các đợt di dân lập ấp cư dân phát triển và khai thác bừa
bãi, nên rừng bị đẩy lùi cạn kiệt, độ che phủ rất thấp. Động vật rừng ngày xưa
có nhiều như voi, cọp, beo, nai, đỏ, khỉ và các loại chim, bò sát nhưng nay trở
nên hiếm hoi. Đồng ruộng La Gi không rộng, địa hình lại bị chia cắt bởi những
quả đồi lượn sóng có độ cao từ 50-190m, tạo ra những lòng chảo cục bộ, độ phì
nghèo, khả năng bị rửa trôi lớn. Sản xuất nông nghiệp chỉ tập trung ở hạ lưu
các sông, suối xen kẽ theo chân núi, sườn đồi theo thời vụ, lệ thuộc nguồn nước
mưa. Về hệ thống thủy lợi, những đập thời vụ có từ trước: Suối Dứa, Láng Đá với
khoảng 6.500m kênh; nhưng kinh tế chủ yếu vẫn là thủy sản và dịch vụ du lịch. Ven
biển La Gi/ Hàm Tân có Hồ Tôm (Tân Phước), Ba Đăng (Tân Hải), Hà Lãng (Tân
Thắng) và nhiều ao, mặt nước có những điều kiện sinh thái tự nhiên rất thuận
lợi cho việc khai thác nuôi tôm nước lợ và sản xuất muối với quy mô lớn. Đây
cũng là tiềm năng kinh tế đáng kể của La Gi. Khoáng sản đa dạng về chủng loại
như Ilmenit, ziacon, sỏi đỏ, cát trắng, than bùn, đá ốp lát (Núi Nhọn)... với
trữ lượng tập trung, là nguồn cung ứng nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp và
xây dựng.
La Gi có đặc điểm khí hậu, thủy văn khá
điển hình, trữ lượng nước mặt cũng như nước ngầm không lớn, nên nông nghiệp
chậm phát triển. Nhưng với bờ biển dài 28 km kéo dài từ Động Trắng -Tân Hải đến
Cam Bình-Tân Phước, chiếm một phần ba chu vi toàn thị xã và lãnh hải rộng
13.000 km2. La Gi được coi có ưu thế về khai thác hải sản. Biển La Gi nằm trong
khu vực thềm lục địa bằng phẳng thuộc hệ nhiệt đới, hội tụ bởi hai dòng nước chảy
nóng lạnh, được tiếp nhận nhiều nguồn phù sa từ sông suối đổ ra tạo nên môi
trường sinh sản phong phú cho các loài hải sản; ngư trường La Gi có nhiều bãi
cá tôm, mật độ dày, đa dạng. Họ cá nục, cá cơm, cá chỉ, cá mối, cá thiều, cá
ngừ chiếm tỷ lệ lớn trong sản lượng khai thác. Đặc biệt trữ lượng hải sản có
giá trị kinh tế và chiếm tỷ trọng xuất khẩu cao như nục, tôm, sò, điệp, ốc
hương phân bố dày ở độ sâu 6- 14 m, tạo nguồn thu nhập lớn cho ngư dân. Duy các
loài cá có tính đặc trưng và sinh sản nhiều trước đây như cá mòi, cá bẹ, cá đỏ
dạ, cá nục... dần dần không còn nữa.Từ các phương tiện đánh bắt thô sơ: Lưới
bén, lưới rùng, câu tay, mành giã... ngư dân La Gi đã phát triển các thuyền
nghề mành chà, lưới cảng, giã cào, vây rút chì quy mô lớn và năng suất cao.Quá
trình xây dựng và phát triển, La Gi đã biết khai thác lợi thế về vị trí địa lý
và tiềm năng biển, rừng, đất đai, khoáng sản, tạo nên những bước chuyển biến
đáng kể, trong đó việc xác định đúng đắn ưu thế hải sản là ngành kinh tế mũi
nhọn đã mang lại những hiệu quả cao trong công nghiệp chế biến xuất khẩu.
Những năm gần đây, diện mạo mới của La
Gi về hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch, văn hóa bắt đầu phát
triển rõ rệt. Nhiều công trình có ý nghĩa phục vụ sản xuất đời sống như thủy
lợi, đường sá, lưới điện quốc gia, đài truyền thanh, trạm tiếp phát truyền
hình, các khu văn hóa, công viên, trường học, bệnh viện... được đầu tư xây
dựng. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngư, nông, lâm nghiệp, công nghiệp chế biến,
đặc biệt từ nguồn đầu tư đa dạng từ doanh nghiệp tư nhân đã hòa nhập với nhịp
độ tăng trưởng kinh tế của Bình Thuận.
Sau cách mạng tháng Tám 1945, La Gi/ Hàm
Tân bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, trở thành căn cứ địa của tỉnh Bình
Thuận, mở ra một vùng chiến lược quan trọng có lúc kéo dài từ Hàm Kiệm, Tiến
Lợi, Tân Thành đến Bình Châu, Thắng Hải. Đến năm 1954 được coi là thời kỳ khá
ổn định của một địa bàn hậu phương, Hàm Tân (cũ) có 6 xã là Tân Phước, Bình
Tân, Bà Giêng, Tân Hiệp, Hiệp Hòa, Văn Mỹ. Sau ngày ký kết Hiệp định Genève
tháng 7/1954 và đến khi có sắc lệnh số 143 ngày 26/10/1956 của chế độ VNCH
thành lập tỉnh Bình Tuy, lấy Hàm Tân-La Gi làm trung tâm bộ máy chính quyền gồm
có 3 quận Hàm Tân, Hoài Đức và Tánh Linh. Quận Hàm Tân với hiện trạng như ngày
nay gồm các xã Phước Hội, Bình Tân, Bà Giêng, Hiệp Hòa, Tân Hiệp, Văn Mỹ có dân
số 68.422 người. Dưới chế độ cũ chưa bao giờ có đơn vị hành chính thị xã La Gi,
chợ Cũ chợ Mới (tức Phước Lộc, Phước Hội) được gọi là thị trấn La Gi vì chiếm
vị trí trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị của tỉnh Bình Tuy và nằm trên địa
bàn xã châu thành Phước Hội. Điều này thường gặp dưới chế độ VNCH, đơn vị hành
chánh cấp Tỉnh, Quận là quận Châu thành, xã Châu thành.
Trong kháng chiến chống Mỹ, do yêu cầu
chỉ đạo phong trào cách mạng, về tổ chức cũng có sự thay đổi để phù hợp với
tình hình của vùng bị tạm chiếm. Khi công cuộc giải phóng dân tộc miền Nam phát
triển nhanh chóng đã đẩy đối phương vào thế co cụm và tiếp theo là làn sóng dồn
dân từ các tỉnh miền Trung- Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị vào các khu khẩn
hoang lập ấp với tên mới Nghĩa Tân, Bình Ngãi (Tân Nghĩa), Phúc Âm (Tân Minh),
Đông Hà (Tân Hà), Động Đền (Tân Thiện, Sơn Mỹ)… Lúc này lực lượng cách mạng địa
phương đã kiểm soát được địa bàn hành lang quốc lộ 1A từ Tà Mon đến Rừng Lá (Tân
Minh) và tuyến đường tỉnh lộ 2 nên Tỉnh ủy Bình Tuy thành lập huyện Nghĩa Lộ
(tháng 11/1973) gồm xã Bà Giêng và các khu định cư mới này. Huyện Nghĩa Lộ và
thị uỷ La Gi chỉ kéo dài đến tháng 11/1975 thì chấm dứt, nhập thành huyện Hàm
Tân, tỉnh Thuận Hải.
Trong bối cảnh đất nước bị thực dân, đế
quốc xâm lược qua các đợt di dân, di cư, La Gi lần lượt tiếp nhận hàng vạn
người tứ xứ đến sinh sống làm ăn: 6.000 đồng bào công giáo miền Bắc di cư năm
1955, 5.000 Việt kiều từ Campuchia hồi hương năm 1970, khoảng 25.000 đồng bào
Quảng Trị, Quảng Ngãi, Quảng Nam di dân năm 1973 theo kế hoạch lấn đất của
chính quyền Sài Gòn, làm cho dân số La Gi tăng nhanh; năm 1975 đã có 68.422 người.
Đến tháng 6/1982, Hội đồng Bộ trưởng
quyết định thành lập huyện Hàm Thuận Nam, tách 3 xã Tân Lập, Tân Thuận, Tân
Thành của huyện Hàm Tân và Hàm Tân còn lại 10 xã và thị trấn La Gi. Đầu năm
2004, chia tách thêm 3 xã Tân Phúc, Tân Đức, Sông Phan và thị trấn Tân Minh.
Nghị định 114 (9.2005) của Thủ tướng Chính phủ thành lập thị xã La Gi với diện
tích tự nhiên 18.282,64 ha và 112.558 nhân khẩu, có 9 đơn vị hành chánh trực
thuộc là các phường Phước Hội, Phước Lộc, Tân Thiện, Tân An, Bình Tân và các xã
Tân Phước, Tân Tiến, Tân Hải, Tân Bình. Như vậy huyện Hàm Tân còn lại có 72.952
ha và 70.515 nhân khẩu, có 9 đơn vị hành chính là các xã Tân Thắng, Sơn Mỹ, Tân
Hà, Tân Nghĩa (nay là Thị trấn), Sông Phan, Tân Đức, Tân Phúc và thị trấn Tân
Minh.
Địa danh La Gi ngày nay có chiều dài lịch sử
của một vùng đất giàu tiềm năng và truyền thống đấu tranh của dân tộc cùng với
quá trình phát triển trong thời kỳ đổi mới xứng tầm với một thị xã mới là điều
tất yếu. Những tên xã, tên làng ngày xưa qua các thời kỳ được đặt tên cho các
xã, phường mới như một bước tiếp nối có ý nghĩa sâu sắc đối với các thế hệ sống
trên vùng đất rất đỗi tự hào và cũng không ít thăng trầm ở đây.
Cuối năm 2005, thị trấn La Gi và một số
xã lân cận chính thức tách ra khỏi huyện Hàm Tân (cũ) trở thành thị xã trực
thuộc tỉnh. Một đô thị mới ra đời với nhiều triển vọng mới.
Phan Chính
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét