BÂNG KHUÂNG
Thứ Ba, 9 tháng 9, 2014
Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2014
BÊN SÔNG DINH - Phạm Tường Đại
BÊN SÔNG DINH
(Tặng La Thuỵ)
Sông Dinh con én gọi mùa
Thuyền ai đậu bến sông mơ tự tình
Hạt sương rơi nặng trên cành
Hoa ti - gôn khuyết nửa vành con tim
Tiếng chim chiều hót bình yên
Gió cuồng say gió từ thiên cổ nào
Cánh buồm vời vợi trăng sao
Còn nghe năm tháng sóng trào mù tăm
Đường xuân chưa lộ ánh rằm
Đã nghe lòng đất nảy mầm thời gian
Bỗng xuân dậy tiếng tơ đàn
Ta âm thanh lạc dưới làn âm thanh
Phạm Tường Đại
Thứ Ba, 2 tháng 9, 2014
LỜI VỌNG CHÂN MÂY - La Thuỵ, Nhã My, Trần Nhàn, Thanh Hoa
Bài thơ LỜI VỌNG CHÂN MÂY tôi viết, sau khi đọc tập thơ HÁT GIỮA RỪNG CHIỀU do nhà thơ Đinh Hồi Tưởng tặng. (Đinh Hồi Tưởng là bút danh của thượng toạ Thích Tấn Tuệ, trụ trì chùa Thanh Trang Lan Nhã - còn được gọi là chùa Đây - cạnh con suối Đó khá thơ mộng ở thị xã La Gi, Bình Thuận). Bài thơ này, không ngờ được khá nhiều thi hữu vui họa.
Từ trái sang:
Nhã My, La Thụy, Thích Tấn Tuệ, Kha Tiệm Ly
LỜI VỌNG CHÂN MÂY
(Cảm đề "Hát giữa rừng chiều" của ĐHT)
Non thiền lắng bợn sắc không
Suối nguồn lờ lững một dòng chân như
Hương Tây phương giũ phù hư
Thoát trùng bể khổ Thuyền Từ phiêu diêu
Hòa mình cùng chốn tịch liêu
Chuông mai Suối Đó, kinh chiều Chùa Đây
Thì thầm lời vọng chân mây
Rừng chiều ai hát riêng tây vô thường
La Thuỵ
HOẠ:
1/
LỜI VỌNG CHÂN MÂY
Lắng lòng nuôi dưỡng tâm không
Vui cùng tuế nguyệt thuận dòng chân như
Sắc hồng mây thả phù hư
Hoa trôi suối bạc hiền từ phiêu diêu
Đâu quang đãng, đâu tịch liêu
Sắc không, không sắc những điều đó đây
Cuốn theo cơn gió đùa mây
Ngàn sao bóng nguyệt lắt lay vô thường
Nhã My
2/
Từ trái sang:
Nhã My, La Thụy, Thích Tấn Tuệ, Kha Tiệm Ly
LỜI VỌNG CHÂN MÂY
(Cảm đề "Hát giữa rừng chiều" của ĐHT)
Non thiền lắng bợn sắc không
Suối nguồn lờ lững một dòng chân như
Hương Tây phương giũ phù hư
Thoát trùng bể khổ Thuyền Từ phiêu diêu
Hòa mình cùng chốn tịch liêu
Chuông mai Suối Đó, kinh chiều Chùa Đây
Thì thầm lời vọng chân mây
Rừng chiều ai hát riêng tây vô thường
La Thuỵ
HOẠ:
1/
LỜI VỌNG CHÂN MÂY
Lắng lòng nuôi dưỡng tâm không
Vui cùng tuế nguyệt thuận dòng chân như
Sắc hồng mây thả phù hư
Hoa trôi suối bạc hiền từ phiêu diêu
Đâu quang đãng, đâu tịch liêu
Sắc không, không sắc những điều đó đây
Cuốn theo cơn gió đùa mây
Ngàn sao bóng nguyệt lắt lay vô thường
Nhã My
2/
LỜI VỌNG CHÂN MÂY
Tâm thiền từng trải sắc không
Hữu thân hữu động lội dòng chân như
Lý tìm chân lý thực hư
Xả thân mới có hồn từ phiêu diêu
Khi rậm rực lúc hoang liêu
Vòng xoay nhật nguyệt sớm chiều là đây
Buồn vui trắng tải ngàn mây
Hạc vàng để lại lầu tây y thường
Võ Sĩ Quý
3/
VÔ THƯỜNG
Hồng trần sắc lập dị không
Cuộc đời vốn dĩ là dòng chân như
Tịnh tâm mặc lẽ thực hư
Tạm rời bể khổ hồn từ phiêu diêu
An nhiên giữa chốn cô liêu
Ươm vần gieo ý vui nhiều từ đây
Thả hồn theo gió cùng mây
Sầu như tan biến ngất ngây vô thường
Clover
4/
VỌNG TỪ HƯ KHÔNG
Lòng trần đón gió hư không
Đường trần vô trước suối dòng như như
Cõi trần sạch bóng phù hư
Tây phương: Bến đó, thuyền từ tiêu diêu
Đất trời đâu chốn hoang liêu
Tâm bình ý tịnh sớm chiều: Chùa đây
Gió yên biển lặng quang mây
Bát phong bất động phương tây: Tâm thường
Lê Văn Thanh
5/
SUY NIỆM BIỂN TÌNH
Đường trần ảo mộng có, không
Tâm hồn hướng thượng chung dòng sông như
Trái tim nhân ái nào hư
Mênh mông sóng vỗ biển Từ phiêu diêu
Sắc hồng nhân thế cô liêu
Bổng nghe tiếng vọng về chiều đâu đây
Biển tình tỏa sáng trời mây
Tâm linh suy niệm đẹp thay vô thường.
Đức Hạnh
4.7.2016
Thứ Năm, 28 tháng 8, 2014
HẬN NAM QUAN - Kha Tiệm Ly
Ải Nam Quan - Ảnh chụp năm 1940
HẬN NAM QUAN
Tổ quốc mất rồi núm ruột Hoàng Sa
Nay lại mất ngàn dặm vuông quan ải
Ai yêu nước mà lòng không tê tái
Bởi núi sông nầy là xương máu ông cha
Từ đao thù bầm nát mình hải đảo
Thì biển ta đã dậy sóng căm hờn
Nghe đất Lũng Nhai vang lời thề sắt máu
Nghe gươm mài rêm đá núi Lam Sơn
Đâu Diên Hồng, đâu cánh tay sát thát?
Đâu Ngô Quyền, đâu Hưng Đạo đại vương?
Đâu ánh mắt luôn rực ngời ánh thép?
Đâu lửa hận thù hun đúc gươm thiêng?
Ta nợ giang san lòng yêu tổ quốc,
Nợ trống Ngọc Hồi, nợ thớt tượng Quang Trung.
Nợ Ức Trai lời Bình Ngô đại cáo
Nợ tổ tiên một dòng máu anh hùng
Chẳng có dịp cho trường giang dậy sóng
Nên cọc Bạch Đằng nuốt hận đứng chơ vơ
Không đủ sức để nâng ngang nòng súng
Ta vẫn còn chất thép trong thơ
Kha Tiệm Ly
Thứ Bảy, 16 tháng 8, 2014
THƠ SƠN CƯỚC - Nguyễn Khôi
Lời dẫn của tác giả:
Nguyễn Khôi sinh ở Yên Bái (1938), lớn lên ở Thái Nguyên, làm việc ở Sơn La 21 năm, 1984 về Hà Nội giúp việc Hội Đồng Dân Tộc... nên có điều kiện cảm nghĩ nhiều về vùng Dân tộc - miền núi.
*1- VỚI SA PA
Đã thầm hẹn lên Sa Pa nghỉ mát
Ra "Cầu Mây" cùng đứng tựa rung rinh
Thỏa mắt ngắm Phăng Xi Păng bát ngát
Trời thần tiên riêng của chúng mình.
Sa Pa mộng đẹp hơn cả mộng
Sa Pa mơ hơn cả giấc mơ
Mây thì cứ vẩn vơ phiêu lãng
Cõi diệu huyền thực thực hư hư.
Ừ dạo cảnh một mình đơn lẻ quá
Chơi "chợ tình" ai đó kéo cùng co
Cứ như thể buổi đầu "cho" mắc cỡ
Ở dưới kia Cốc Lếu đợi mong chờ.
Sa Pa đấy thả hồn thơ bay bổng
Cứ như là hẹn đến để mà yêu
Một chén rượu uống trong chiều lạnh cóng
Một nụ hôn sương khói ở bên đèo.
Mùng 1 tháng 8 Bính Tý.
Thứ Tư, 13 tháng 8, 2014
LƯỢM - Kha Tiệm Ly
Nhà thơ Kha Tiệm Ly
LƯỢM
Dọc non nước lượm vài câu chánh khí,
Lượm chút văn chương, lượm chút ngạo đời
Lượm chút trượng phu, lượm tình tri kỷ,
Lượm chút phong trần, ngâm rượu uống chơi.
Kha Tiệm Ly
Thứ Ba, 12 tháng 8, 2014
TIÊU TƯƠNG - Nguyễn Khôi
TIÊU TƯƠNG
"Quân tại Tương giang đầu"...
(Tặng : Nhã My)
Sao Tiêu Tương lại là buồn thương ?
Để mưa rơi ướt cả dặm trường
Chia ly như thể không gặp lại
Để Trúc bên sông đốm võ vàng...
Sao Tiêu Tương lại là bi thương ?
Nỗi đời hai ngả biệt âm dương
Tình em như nước Trường Giang ấy
Sớm tối theo anh tới mộ vàng...
Sao Tiêu Tương cho lòng tổn thương ?
Trái tim sẻ nửa giữa đoạn trường
Một nửa nát tan chìm đáy sóng
Một nửa cầm tù nơi cố hương...
Sao Tiêu Tương để người trúng thương ?
Dưỡng thương hao tổn mấy năm trường
Cho hồn dậy lớn Thơ mọc cánh
Chắp với hồn ai lạnh hơi sương...
Sao Tiêu Tương nên tình vấn vương ?
Vượt cả ngục tù, vượt đại dương
Tới một chiều nao im lặng sóng
Đôi trái tim một nhịp thương thương...
Sao Tiêu Tương muôn đời sầu vương ?
"Đa tạ Quân Vương : thiếp phụ chàng"
Tựa bờ Lau trắng tình ngây ngất
Thơ đà kiệt sức, hồn lang thang...
Bên bờ Tiêu Tương, quê Từ Sơn
Mùa Vu Lan 2014
Nguyễn Khôi
Thứ Hai, 11 tháng 8, 2014
Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2014
THU - La Thuỵ
Thu đang về, mình làm thử bài thơ lục bát khoán thủ này đón thu!
Lấy ý câu: "Ngô đồng nhất diệp lạc thiên hạ cộng tri thu" (một chiếc lá ngô đồng rơi thiên hạ đều biết thu tới rồi) để viết
THU
NGÔ buồn khép áo mơ màng
ĐỒNG xa toả nắng đôi hàng mây bay
NHẤT nhì mưa nắng đổi thay
DIỆP sầu héo úa trơ gầy cành thân
LẠC trong hơi ấm điệu vần
THIÊN thu nghe gọi như trăn trở về
HẠ xưa sực tỉnh hồn mê
CỘNG sinh đồng tử lời thề bâng khuâng
TRI âm chôn kín mộ phần
THU nay lẽ bóng nhìn trăng ngậm ngùi
La Thuỵ
Lấy ý câu: "Ngô đồng nhất diệp lạc thiên hạ cộng tri thu" (một chiếc lá ngô đồng rơi thiên hạ đều biết thu tới rồi) để viết
THU
NGÔ buồn khép áo mơ màng
ĐỒNG xa toả nắng đôi hàng mây bay
NHẤT nhì mưa nắng đổi thay
DIỆP sầu héo úa trơ gầy cành thân
LẠC trong hơi ấm điệu vần
THIÊN thu nghe gọi như trăn trở về
HẠ xưa sực tỉnh hồn mê
CỘNG sinh đồng tử lời thề bâng khuâng
TRI âm chôn kín mộ phần
THU nay lẽ bóng nhìn trăng ngậm ngùi
La Thuỵ
Thứ Tư, 6 tháng 8, 2014
MUỘN MÀNG VỚI HUẾ - Phạm Tường Đại, Lệ Hường
Nhà thơ, nhà giáo Phạm Tường Đại (1930 -2008), hội viên VHNT Bình Thuận, chủ nhiệm đầu tiên CLB THƠ CA LAGI (Bình Thuận), dù đã về miền thiên cổ 6 năm nay, nhưng hình ảnh của ông vẫn còn tươi nét trong lòng bạn bè, thân tộc. Xin giới thiệu bài thơ MUỘN MÀNG VỚI HUẾ của ông với các bạn
Thơ: Phạm Tường Đại
Diễn ngâm: Lệ Hường
MUỘN MÀNG VỚI HUẾ
Mây cổ tích lung linh chiều cánh mộng
Mắt u hoài lay động sóng hồ thu
Lời dịu ngọt đưa ta về với Huế
Thương đêm trăng cô gái hái xương bồ
Hơn một lần nghe câu hò Vĩ Dạ
Mái chèo khuya man mác nước sông Hương
Ai nghiêng nón đề thơ quên lối vào Thiên Mụ
Để bây chừ còn vấn vấn vương vương
Hy vọng một ngày lại trở về thăm Huế
Cùng rong chơi điện Ngọc đá phong rêu
Nhặt từng giọt chuông rơi phía chân trời nhung nhớ
Thả xuống dòng xưa chút duyên muộn vơi chiều
Phạm Tường Đại
Thứ Ba, 5 tháng 8, 2014
HÀM TÂN QUÊ HƯƠNG TÔI - Minh Khanh
Năm 1995, Phòng Giáo Dục Hàm Tân phối hợp với chi hội VHNT địa phương tổ chức cuộc thi sáng tác thơ văn với chủ đề Quê Hương cho học sinh toàn huyện tham gia. Thời điểm này, huyện Hàm Tân và thị xã LaGi chưa chia tách địa bàn hành chính. Con trai mình - Minh Khanh, lúc đó học lớp 8 (trung học cơ sở), đạt giải nhì về thơ. Trong đợt giao lưu với CLB THƠ CA LA GI mình giới thiệu bài thơ này:
HÀM TÂN - QUÊ HƯƠNG TÔI
Ai về quê tôi
Hàm Tân thương mến
Đây La Gi thị trấn xôn xao
Nhà mới cất vẫy gọi mấy tầng cao
Đường mở rộng mềm êm làn nhựa phủ
HÀM TÂN - QUÊ HƯƠNG TÔI
Ai về quê tôi
Hàm Tân thương mến
Đây La Gi thị trấn xôn xao
Nhà mới cất vẫy gọi mấy tầng cao
Đường mở rộng mềm êm làn nhựa phủ
Đây Đồi Dương êm ả
Cành lá xạc xào bóng toả mát hồn thơ
Bãi cát vàng run rẫy sóng trào xô
Cùng biển cả dạt dào vòng luân vũ
Hòn Bà mơ màng lờ lững mây vương
Trời trong xanh óng ả nắng hồng ươm
Tình thoáng gợn rập rờn theo sóng nước
Đây Đá Dựng đập cao tràn thác lũ
Hoa anh đào hé nụ đón xuân sang
Xóm làng thanh bình êm như say ngủ
Bướm chập chờn chao liệng cánh phong lưu
Thoáng e ấp vườn hoa nghiêng má phấn
Gió rì rào buông lơi lời tình tự
Hàng dừa nghiêng bay xoã tóc nhung dài
Dân Tam Tân tay chài tay lưới
Biển dậy vang sóng vỗ tiếng hò khoan
Thuyền trĩu nặng cá tôm về ắp bến
Đây Sơn – Hà – Minh – Xuân – Thiện – Nghĩa
Xóm làng quê êm ả khói lam chiều
Chàng mục tử lưng trâu về chậm bước
Bóng đồi cây dàn trải ánh hoàng hôn
Hương đất trời rộn rã lan bay
Thoảng hồn quê dậy lên niềm cảm hứng
Quê hương ơi! Muôn thuở nhớ thương hoái
MINH KHANH
(Hàm Tân - 1995)
Chủ Nhật, 3 tháng 8, 2014
BIỂN MAI HỒNG - La Thuỵ
BIỂN MAI HỒNG
Hòn Bà ngắm sóng trầm tư
Đồi Dương ửng nắng liễu ru ven bờ
Sương lam sực tỉnh hồn mơ
Chao mình theo gió lượn lờ cùng mây.
Cỏ xanh, mượt trải đất dày
Dã tràng xe cát lạnh gầy dấu chân
Bay cùng cánh mộng bâng khuâng
Tình thơ ý nhạc như lần tuôn ra.
Tiếng lòng xưa vẫn mặn mà
Ồ sao gờn gợn âm ba nỗi mình
Lặng lờ rùa biển đinh ninh
Nghìn năm hóa kiếp đọng tình rong rêu.
Dạt dào biển dậy niềm yêu
Lung linh khói sóng phiêu diêu mộng lòng.
LA THUỴ
Thơ : La Thuỵ
Nhạc: Bùi Tuấn Anh
Trình bày: Xuân Liễu
Video clip: Quay trực tiếp năm 2005
Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2014
NHÂN SỰ VIỆC CHÂU BẢN TRIỀU NGUYỄN ĐƯỢC UNESCO CÔNG NHẬN - Hoàng Đằng
Trưởng đại diện văn phòng UNESCO Hà Nội, bà Katherine Muller Marin trao bằng công nhận Di sản tư liệu Châu bản triều Nguyễn thuộc chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á-Thái Bình Dương cho Bộ trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam, ông Nguyễn Thái Bình. Ảnh: Quỳnh Trang
NHÂN SỰ VIỆC
CHÂU BẢN TRIỀU NGUYỄN ĐƯỢC UNESCO CÔNG NHẬN
Ngày 30/7/2014 vừa rồi,
chính phủ Việt Nam đón nhận “Bằng Di Sản Tư Liệu Thuộc Chương Trình Ký Ức Thế
Giới Khu Vực Châu Á – Thái Bình Dương” do UNESCO trao tặng công nhận đối với
Châu Bản Triều Nguyễn.
Châu Bản Triều Nguyễn
là những văn bản hành chánh quan trọng quản lý nhà nước về mọi mặt dưới triều
Nguyễn (1802 – 1945) từ vị vua đầu tiên là Gia Long đến vị vua cuối cùng là Bảo
Đại; những văn bản này gọi là Châu Bản vì có bút phê cho ý kiến bằng mực màu
son đỏ (châu) của vua.
Trong Châu Bản, phần có
tính thời sự nhất hiện thời là sự xác lập chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa đang có tranh chấp quyết liệt với Trung Quốc. Trung Quốc là một
nước lớn, mạnh hơn nước ta nhiều lần về mọi mặt. Việc đấu tranh chỉ trông cậy
về mặt pháp lý và ngoại giao. Vì vậy, những gì còn ghi trong Châu Bản được đánh
giá là bằng chứng lịch sử có giá trị cao.
Châu bản triều Nguyễn không chỉ là di sản chứa đựng những sự kiện lịch sử có giá trị, mà còn là minh chứng về chủ quyền biển đảo
Các vị vua triều Nguyễn
đặc biệt là 2 vị đầu: Gia Long và Minh Mạng có tài năng, có kiến thức về trị
nước, có tâm huyết với giang sơn. Hai vị vua ấy đã thống nhất trọn ven lãnh thổ
quốc gia không những trên đất liền mà còn vươn ra các đảo xa trong vịnh Bắc bộ,
trong biển Đông và trong vịnh Thái Lan. Hai vị vua ấy còn có công kiện toàn bộ
máy quản lý lãnh thổ mà cho đến ngày nay dấu vết còn in ở một vài lãnh vực.
Thứ Năm, 31 tháng 7, 2014
CHÙM THƠ NGUYỄN HÙNG DŨNG
RA HUẾ
Huế ơi! Ra
Huế đã mấy lần
Lòng sao hồi
hộp, dạ bâng khuâng
Vì Huế có nửa
trời sâu nặng
Nửa kia, xa
Huế nhớ mưa tần
Huế nợ
ta, vì để ta đi
Nhớ ngày
xưa, tang tóc, phân ly
Ta nợ Huế, đành
trở lại Huế
Làm sao
ta - Huế phải phân kỳ
Ta lại về
Huế giữa mùa thu
Chút
mưa, chút nắng, gió vi vu
Lang thang
suốt cả bờ hữu ngạn
Cảnh đó, người
đâu? Dưới mây mù
Ta lặng
nhìn trong đám cỏ cây
Hỏi hồn bia
đá đã bao ngày
Hỏi nàng
Tôn nữ, mắt xưa ấy
Hỏi đường hỏi
phố, dáng ai gầy?
Ta trở về, đi
dọc sông Hương
Một bên
thành quách, bên phố phường
Bên kia, tuổi
đã vài trăm chẵn
Nằm chán
chơi vơi: cõi vô thường.
Ta về Vỷ Dạ, đợi
trăng lên
Đợi ai! Áo
trắng ở bên thềm
Đợi người họa
lại bài thơ cũ
Đợi chiếc
đò ngang, có gọi tên?
Ừ thì thôi!
Huế vẫn xưa
Đền
đài, lăng tẫm…vẫn còn lưa
Miếu mạo, chùa
chiền…vẫn còn đó
Lòng ta cô
lữ! Trời đổ mưa…
Thứ Tư, 30 tháng 7, 2014
CHÙM THƠ NGUYỄN KHÔI
UỐNG
RƯỢU VỚI NGƯỜI ÂM
Họa thơ Vân Hạc
Tặng Hoàng Xuân Họa
Ta mơ :
Nàng lại về đêm
Ở nơi
"Kinh cốc" êm đềm cùng ta
Ngỡ đây là Huế, là Hà
Trái tim bốc
lửa gần xa thiêu đời
Ai hay Ma vẫn
yêu Người ?
Liêu Trai tình ắp một trời tri âm
Nàng "đi
xa" đã bao năm
Đạn bom khi
nổ trong hầm vắng nha
Thương cho
thân Ngọc nát nhàu
Trái tim
còn đập tới đau chót cùng !
Nàng tan
vào cõi Tiên Rồng
Chiến chinh
để nỗi hận lòng bấy nay
("nhưng không chết Người Trai khói lửa
Lại chết Người Gái Nhỏ hậu phương")
Về Làng ngắm
ngọn cờ bay
Thương ôi nước
mắt ngấm đầy vinh quang
Hồn quê thấm
đẫm tình Làng
Thoáng như ai
?- cái bóng Nàng tít xa
Ước
gì mình sớm là Ma
Xuống
Tuyền Đài sánh đôi ta một lần…
Đêm
nay mưa lặng gió gần
Nàng về "đối ẩm" vơi phần rượu cay
Cái
thân vùi dưới đất dày
Hồn
yêu thì lại cứ bay quấn đời
Chén vui tưởng đến vỡ trời
Ai
hay chén hẹn Ma mời cỏn con
Chập
chờn chén mất chén còn
Đắm
trong ánh mắt, môi son mỹ miều
Tình là một cuộc phiêu diêu
Ai
hay "Kinh cốc", sóng triều, đường quan
Tình say, duyên lại bẽ bàng
Người
/ Ma "đối ẩm" lệ tràn đáy tim
Bốn
mươi năm vượt dặm nghìn
Rượu
hay là máu từ tim... Hỡi Nàng ? !
Góc thành nam Hà Nội 27-7-2014
Thứ Hai, 28 tháng 7, 2014
NỒNG NÀN PHỐ - Nguyễn Khôi
Tác
giả Nguyễn Khôi. Sinh 1938.
Quê:
Phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Đ/c:
39/259 phố Vọng, quận Hai Bà Trưng - Hà Nội.
Email:
khoidinhbang@gmail.com
NỒNG NÀN PHỐ
"Anh ngủ thêm đi anh
Em phải dậy lấy chồng"
(1)
Xa rồi em... chốn quê
Nổi nênh "nồng
nàn phố"
Cả vầng trăng đêm hè
Gieo vàng vào nỗi nhớ...
Một chút "nồng
nàn phố"
Trên môi chàng si mê
Vương hương trên sóng
cỏ
Liếm láp chân bờ đê...
Thôi, xa rồi chốn quê
Đi vào ồn ào phố
Chẳng mong chi ngày về
Và quên đi nỗi nhớ…
Ơi em "nồng nàn
phố"...
NGUYỄN KHÔI
Góc thành nam Hà Nội, 27-7-2014
Chủ Nhật, 20 tháng 7, 2014
ĐÊM SAY CÙNG LA THUỴ - Thơ Lương Minh Vũ
Nhà thơ Lương Minh Vũ
Thơ : Lương Minh Vũ
Nhạc: Bùi Tuấn Anh
Trình bày: ca sĩ Châu Thuỳ Dương
Hoà âm: Trần Nhàn
Video clip: Phú Đoàn
ĐÊM SAY CÙNG LA THUỴ
Rót mông lung xuống bôi đầy
Đường lô nhô bóng, phố gầy guộc đêm
Trăng bơi đáy chén trăng mềm
Thơ ai gẫy vận bên thềm khuya rơi
Rót hỗn mang xuống mộng đời
Lăn qua cho hết cuộc chơi khóc cười
Rót quạnh hiu xuống cõi người
Sông xưa cuốn hết xanh tươi dấu nguồn
Rót niềm vui xuống nỗi buồn
Dù mai cuối sóng đầu truông cũng về
Rót ta chảy xuống tràn trề
Trăng say, còn bạn cận kề dìu nhau.
Lương Minh Vũ
Thứ Sáu, 18 tháng 7, 2014
VỌNG CỐ HƯƠNG - La Thuỵ
VỌNG CỐ HƯƠNG
Mây Tần dõi bóng dạ nao nao
Hồi ức miên man cuộn sóng trào
Quảng Trị đường xưa ươm kỷ niệm
La Gi phố mới vắng tâm giao.
Ly hương khắc khoải thương mưa Bấc
Biệt xứ bâng khuâng nhớ gió Lào
Trở gối chập chờn chao cánh mộng
Vọng về quê cũ dấu yêu trao.
La Thuỵ
Thứ Năm, 10 tháng 7, 2014
LÃNG ĐÃNG KHÓI SƯƠNG HOÀI NIỆM VỚI LƯƠNG MINH VŨ - La Thuỵ
Lương
Minh Vũ hiện đang sinh hoạt trong Hội Văn Học Nghệ Thuật Bình Thuận. Anh có một
số truyện ngắn đăng trên các tạp chí Văn Nghệ,Văn Nghệ Quân Đội,Văn nghệ Thuận
Hải,Văn Nghệ Bình Thuận, tập san Văn (phụ trương của Kiến Thức Ngày Nay)... Xin
giới thiệu vài truyện ngắn của LMV, chủ yếu là truyện ngắn "SƠN NỮ"
qua cảm nhận của La Thuỵ
LƯƠNG
MINH VŨ
VỚI LÃNG ĐÃNG KHÓI SƯƠNG HOÀI NIỆM
VỚI LÃNG ĐÃNG KHÓI SƯƠNG HOÀI NIỆM
Tôi đã đọc
“Sơn Nữ”, “Nằm Nghiêng Nhớ Núi”, Làng Của Những Người Mơ Mộng”… các truyện ngắn
trên của Lương Minh Vũ đã gieo trong tôi một ấn tượng chung - Một không khí
hoài niệm bàng bạc bao trùm. Những tình tiết, những sự kiện, những kỷ niệm xưa
cũ như đan kết thành màn khói sương mờ ảo hư hư thực thực, với những nét chấm
phá đậm nhạt của một bức tranh thủy mặc, trôi về trong tâm cảnh của nhân vật
chính trong truyện.
Thứ Hai, 7 tháng 7, 2014
VIẾNG NHÀ VĂN TÔ HOÀI - Nguyễn Khôi
Nhà văn Tô Hoài, tác giả của tác phẩm nổi
tiếng Dế Mèn phiêu lưu ký đã qua đời vào sáng 6-7-2014, hưởng thọ 94 tuổi.
Nhà văn Tô Hoài sinh năm 1920, tên
khai sinh là Nguyễn Sen, quê nội ở huyện Thanh Oai, Hà Nội. Tuy nhiên ông lớn
lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, Hà Đông (nay thuộc quận Cầu Giấy,
Hà Nội).
Ông đến với văn chương ở tuổi thanh
niên, lấy bút danh là Tô Hoài, gắn với hai địa danh là sông Tô Lịch và phủ Hoài
Đức.
Năm 1941, Tô Hoài sáng tác Dế Mèn phiêu
lưu ký, trở thành tác phẩm văn học gắn liền với tuổi thơ của nhiều thế hệ thiếu
nhi Việt Nam từ đó đến nay.
Bên cạnh đó, ông còn cống hiến cho nền
văn học trong nước hàng trăm tác phẩm đáng quý, thuộc nhiều thể loại khác nhau:
truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm
sáng tác, nổi bật như Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế Mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu
quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn
Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ...
Nhà văn Tô Hoài được trao giải thưởng Hồ
Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật tại đợt đầu tiên vào năm 1996. Tác phẩm gần nhất
của ông là Ba người khác, phát hành vào năm 2006.
Nhà văn Tô Hoài tại Đại hội Liên hiệp
Văn học Nghệ thuật Hà Nội 2011
Nhà văn Tô Hoài tại Đại hội Liên hiệp
Văn học Nghệ thuật Hà Nội 2011
- Ảnh: Việt Chiến
VIẾNG
NHÀ VĂN TÔ HOÀI
Nhà Văn chết rồi còn để đời Tác phẩm "Dế
Mèn" về trời ...
Nhân loại nhớ mãi cuộc "phiêu lưu"...
"Dế Mèn"... Cụ đã về trời
94 xuân...một kiếp Người Việt Nam
"Quê Người" mở đời Văn việt dã
"O Chuột" kia vật vã "Giăng thề"
Lại
về "Xóm giếng ngày xưa"
Nhâm nhi "Cỏ dại" tơ mơ "Dế Mèn"...
Rồi
sấm sét cả miền có giặc
"Cụ" dạt lên Tây Bắc
"Xuống Làng"
Đi
theo "Đại đội Thắng Bình
"Vợ chồng A Phủ" đượm tình Xoong Pe
Trời yên ả lại về Kẻ Chợ
"Khác trước" rồi "Người (ở) ven thành"
"Vỡ tỉnh", "chuyện cũ" loanh quanh
"Những gương mặt" vụt sang "Thành Lê Nin"
"Thăm Căm Pốt" mắt nhìn bốn mặt
"Lăng Bác Hồ" mấy bậc "Vùng cao"
"Hồng vàng song cửa" thanh cao
"Mèo lười", "Chim gáy" xôn xao "Lạc rừng"
Thật khí thế "Kim Đồng" tuổi trẻ
Thoắt bay ra vùng bể "Đảo
hoang"
"Mười năm" nhớ bạn nhớ làng
"Miền Tây", "Tự truyện", "Phố phường"
nguôi ngoai
"Quê nhà" lấm "chân ai cát bụi" ?
Kể gì "Ba người khác" trớ trêu
Một đời lãng tử phiêu diêu
Nhởn nhơ thân "Dế" mặc điều thị phi
Cứ nhẩn nha bốn bề cương tỏa
Trải báo phen sinh tử chẳng sao
Trải báo phen sinh tử chẳng sao
Trường văn trận bút rào rào
Trông đi ngó loại được bao lăm người ?
Cứ như "Dế" yêu đời hết dạ
Ngòi bút "duyên" cứ thả đều đều
Xem ra tầm cỡ loại "Siêu"
Tinh tường, sắc nhậy... thêm yêu tiếng mình
Sống một đời trọn tình vẹn nghĩa
"Dế Mèn" ơi bốn bể nhớ Người
"Hòa Bình" ước vọng thơm tươi
Văn Tô Hoài đẹp tình đời Việt Nam.
Hà Nội, tối
6-7-2014
NGUYỄN KHÔI kính viếng...
Thứ Sáu, 4 tháng 7, 2014
NHỚ CHẾ LAN VIÊN - Nguyễn Khôi
NHỚ CHẾ LAN VIÊN
"Nam
Quốc sơn hà Nam Đế cư"
(Thơ thần đời Lý)
"Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?" (1)
-Ta
chẳng đời nào dâng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng
Lịch
sử đã hằn đen tên vua Lê Chiêu Thống
Lũ
đớn hèn bán nước cầu vinh.
Đất
nước vua Hùng - Tổ quốc Việt Nam
Bao
thế hệ ông cha giữ gìn bờ cõi
Từ
Ngô Quyền diệt quân Nam Hán
Lý
Thường Kiệt đánh giặc tới Ung Châu
Chém Toa Đô..."Sát Thát" động toàn cầu
Đổi
áo Lê Lai liều mình cứu Chúa
Trận
Đống Đa... Quang Trung tung Hỏa Hổ...
Những
Hải đội Hoàng Sa
Những
chiến sĩ Việt Nam tử thủ Hoàng Sa
Những
anh hùng chết ở Gạc Ma
Những
Lê Đình Chinh - trận Biên giới tháng 2-79
Người
Việt Nam lập lại hòa bình từ cuộc chiến.
Từ
ông cha ta
với
những "con mắt Bạch Đằng / con mắt Đống Đa
nhìn thấu vận mệnh nghìn năm sau cho Tổ quốc ".(2)
Và
thời nay
có "con
mắt anh Ba" (3)
nhìn xuyên tim Bành Trướng.
Hỡi
ai đó, chớ u mê ảo tưởng :
-"Đồng chí / anh em"- "14 chữ vàng"
(Sói đội lốt Người)
cả
"4 tốt" đều là lòe bịp !
Ta
tự hào Lịch sử bốn nghìn năm
Là
chính nghĩa - ta đều giành chiến thắng.
Chao, con Rồng Trung Hoa
tỉnh
mê / ảo tưởng
độc
chiếm Biển Đông / bá chủ toàn cầu
Nên
tỉnh ngộ : nay là Thế giới phẳng
Thời
đại văn minh / luật lệ rõ ràng.
Thò
Lưỡi Bò : đem cắm dàn khoan
vào
mạng sườn Việt Nam
hung hăng / lỗ mãng
thách thức loài người/ tuột mất tình thân.
Ta
chẳng sợ
với truyền thống : cả Dân tộc kết
thành một khối
Tiếng
nói nhân dân : một Hội nghị Diên Hồng.
Phải
để lại cho cháu con vẹn toàn Đất Nước
Từ Lũng Cú - Nam Quan
đến Cà Mau - Hà Tiên - Phú Quốc
cả
Hoàng Sa - Trường Sa
không thể mất
"Ta đánh giặc và phải là ta thắng giặc" (4)
Ôi
Việt Nam
"Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? "
Góc thành nam Hà Nội 4-7-2014
NGUYỄN KHÔI
(1) (2) (4)... thơ Chế Lan Viên
(3) Tổng bí thư Lê Duẩn.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)