BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 12 tháng 5, 2025

ĐƯỜNG MÂY TRẮNG GỌI – Thơ Tịnh Bình


  

 
ĐƯỜNG MÂY TRẮNG GỌI
 
Giọt nước nào rơi xuống
Hạt bụi nào bay lên
Nỗi buồn như rất thật
Sao chẳng thể thành tên...
 
Phiến mây trầm u uất
Lạc về đâu mưa nguồn
Lũ ve ngày tháng hạ
Dóng dả tựa hồi chuông
 
Triệu bước đi mải miết
Trên con đường ngàn năm
Trong vô vàn gương mặt
Đâu chân diện mục mình ?
 
Người rong chơi sáu cõi
Đã đến và rời xa
Dưới bóng cây cổ thụ
Hoài niệm ánh trăng già
 
Đời ta sương lá cỏ
Trước bình minh cúi đầu
Đường xưa mây trắng gọi
Đã qua rồi bể dâu...
 
                        Tịnh Bình
                        (Tây Ninh)

THƯƠNG NHỚ MẸ - Thơ Quách Như Nguyệt, nhạc Đặng Vương Quân, ca sĩ Tâm Thư trình bày


            


THƯƠNG NHỚ MẸ
 
Bao nhiêu bài thơ con làm
Chưa bài nào con làm cho mẹ
Hôm nay đọc những bài thơ về mẹ,
của bạn bè, con cảm thấy xót xa
Đúng quá đúng những bài thơ ngợi ca
Nước mắt con tuôn trào
Thấy thổn thức, thấy nhớ thương vật vã!
 
Hai mươi năm kể từ ngày mẹ mất
Con lạc loài, hụt hẫng lắm mẹ ơi
Không còn mẹ, ai dậy dỗ trên đời
Những lúc khổ chẳng còn ai tâm sự
Ai khuyến khích, ai mừng con khá giả
Ai nghe con chia sẻ chuyện âu sầu...
 
Khi quấn khăn tang mầu buồn trắng lên đầu,
dẫu vẫn biết... từ đây mình mất mát
Đâu ngờ rằng mất nhiều quá mẹ ơi!
 
Không có ai hiểu con bằng mẹ hiểu
Mất mẹ rồi, trống vắng biết bao nhiêu
Thèm mẹ mắng, nghe mẹ cười hớn hở
Mất thật rồi… ai nâng đỡ, thương yêu
Mẹ thương con, tình thương vô điều kiện
Mẹ thương con tình mẹ chẳng bến bờ
 
Bao nhiêu tuổi vẫn là con của mẹ
Mẹ mất rồi con bé bỏng với ai
Bao nhiêu tuổi vẫn là con gái mẹ
Thèm dụi đầu vào nách mẹ, ôm vai
 
Hoa hồng trắng con ngậm ngùi cài áo
Cài hàng năm vào ngày lễ Vu Lan
Nhớ mẹ yêu con đã khóc nghẹn ngào
Tháng Bẩy ta mùa Vu Lan báo hiếu
Mẹ còn đâu mà đền trả, mẹ yêu…
 
Mẹ yêu ơi hôm nay con nhớ quá
Nhớ mẹ hiền, con nhớ quá mẹ ơi?
Ngày hiền mẫu không còn mẹ trên đời
Thương nhớ mẹ, mẹ của con, mẹ hỡi…

                                   May 7th, 2015
                              Quách Như Nguyệt

MẸ CỦA TÔI MUÔN NĂM ĐỪNG AI NGĂN TÔI NHỚ - Trần Vấn Lệ



Hàng năm cứ tháng Năm, nhớ chớ Ngày Của Mẹ.  Không ai ngăn giọt lệ NGÀY DÀNH CHO MẸ MÌNH!
 
Ngày đó, từ bình minh đã nghe tiếng chim hót, chuông Chùa như chỉ rót xuống bàn tay từng người...
 
Chuông Nhà Thờ cũng rơi... rơi từ sáng đến tối, từ trong ngõ lầy lội đến đại lộ thênh thang...
 
Không phải ngày huy hoàng.  Quả thật chưa ai thấy... chỉ Mẹ đi như chạy lo cho Ba đi làm...
 
Khi cái xe bus vàng đậu lại, Mẹ dẫn tới hai đứa con đứng đợi, Mẹ gửi theo nụ hôn...
 
*
Hạnh Phúc, người ta... buồn?  Tôi thấy người ta khóc!  Mẹ tôi và Tổ Quốc của tôi ơi!  Xa vời...
 
Anh, chị, cũng thế thôi - chúng ta đều đi lạc vòng tay của Âu Cơ!  Chúng ta đều trẻ thơ, không ai không nhớ Mẹ!
 
Tổng Thống Ngô Đình Diệm kể:  "Tôi theo Đạo của Cha nhưng mỗi Giao Thừa qua theo Mẹ đi Lễ Phật...
 
... tôi không, không thể ác đàn áp các Thầy đâu!".  Ngô Đình Diệm vò đầu của mình buồn chan chứa...
 
Thôi!  Tôi nói như rứa!  21 tháng 8 một chín sáu ba đó:  Sài Gòn - Bàn Thờ - Phật ngổn ngang...có Trái Tim Bằng Vàng Thầy Quảng Đức không nát...
 
Trên những cánh đồng mạ lời ca còn vang vang:
"Mẹ còn, con ăn cơm với cá!  Mẹ mất không ai kho cá cho con ăn...".
 
Mẹ!  Mẹ của tôi Muôn Năm
đừng ai ngăn tôi nhớ! 
 
                                                                                 Trần Vấn Lệ  

Chủ Nhật, 11 tháng 5, 2025

SỰ THẬT VỀ “VỊ” TRONG “KHAI VỊ” 開胃 - Tiếng Việt giàu đẹp

“Khai vị” là một từ gốc Hán, vốn được viết từ hai chữ 開胃, trong đó “khai” () có nghĩa là “mở’ (như trong “khai giảng”, “công khai”...) còn “vị” () được Việt Hán Thông Thoại Tự Vị của Đỗ Văn Đáp giảng là “dạ dầy, một cái trong lục phủ, lệch về bên tả, ở dưới hoành cách mô”. Đây cũng là “vị” trong “vùng thượng vị” (vùng phía trên của bụng, có ranh giới từ rốn trở lên đến phía dưới xương ức).


“Khai vị” là món được dùng đầu tiên trong một bữa tiệc. Hẳn vì liên quan đến món ăn nên nhiều người đã hiểu rằng “vị” ở đây chính là “vị” trong “hương vị”, “mùi vị” và “khai vị” có nghĩa là “khai mở hương vị”. Thực tế thì nghĩa đen của từ này không “lộng lẫy" như thế.
 

Thứ Sáu, 9 tháng 5, 2025

PHẬT XUỐNG ĐƯỜNG MỘT CÔNG ÁN BÁT NHÃ –Trần Kiêm Đoàn


Hình minh hoạ - Nguồn: Online

Những dư chấn do lịch sử để lại trên mỗi đất nước đều có nguyên nhân và hậu quả không giống nhau. Lịch sử Việt Nam bị bóng đè trầm trọng nhất là từ Tàu đô hộ, Tây xâm lăng và những trào lưu ngoại nhập.
 
Đạo Phật Việt Nam cũng khởi phát từ trào lưu văn hóa tôn giáo ngoại nhập nhưng hành trình hai mươi thế kỷ đã tinh lọc được những gì hợp với những đặc tính dân tộc Việt thì còn và những gì mang bản chất ngoại lai không dung hóa được với dòng sinh mệnh của dân Việt thì sẽ bị âm thầm hay tự biến tướng đào thải. Quá trình đào thải đó có khi diễn ra tức khắc, có khi kéo dài theo thời gian tùy vào thực trạng kinh tế, xã hội, văn hóa hội tụ mà hình thành nếp sống tâm linh, tôn giáo.

PHU NHÂN MỘT VỊ TƯỚNG - Đinh Yên Thảo


Bà Nguyễn Tường Nhung, trưởng nữ của nhà văn Thạch Lam

1. Sơ ngộ

Bà cho số nhà lộn một số nên chúng tôi đảo xe một vòng vẫn chưa tìm ra. Vị khách của bà bấm điện thoại gọi lại, nhà ngay mặt đường, chỉ chạy thêm một đoạn là đến. Dừng xe thì bà đã đứng đợi trước ngôi nhà xinh xắn nho nhỏ, vẫy tay chào nhưng không đợi mà bước vào nhà.

Còn đôi năm nữa là bước vào tuổi 90, trông bà vẫn khá khoẻ mạnh và hoạt bát, có phần thời trang với cái nón và chiếc khăn quàng cổ bắt mắt. Gặp bà lần đầu tiên theo lời rủ của một anh bạn nhà báo, chúng tôi cùng đến thăm bà. Không biết gì nhiều về bà ngoài cái tên và chút gia thế đã đọc được đó đây khi bà ra hồi ký đôi năm trước. Tôi cảm nhận ngay nét quý phái, thanh lịch của những phụ nữ trí thức Hà thành di cư lẫn sự gần gũi, ân cần của người miền Nam qua cách bà tiếp đón và xưng hô cùng chúng tôi. Về nhà đọc sách của bà, thấy ấn tượng lần sơ ngộ của mình không sai mấy. Nhưng hãy trở lại điều này sau.

Thứ Năm, 8 tháng 5, 2025

ĐI ĂN NEM LỤI SÃI – Đinh Hoa Lư


Bạn bè Nguyễn Hoàng về thăm Nem Sãi sau 40 năm
 
Thuở 'ăn hàng' của chúng tôi xem ra cũng 'xưa' lắm nhất so với nhịp độ phát triển của đất nước hiện nay. Tuy thế khi tâm hồn mình còn gắn bó với yêu thương và tiếc nhớ với những gì mộc mạc bình thường hay nói khác đi những nét đời bình dị của một thời đã qua thì chúng ta hay thích kể lại.
 
Chúng ta nhắc lại cũng có khi lại muốn cho con cháu sau này hình dung ra hay cho chúng ta cùng nhau nhớ về tuổi nhỏ. Nhớ làm sao hình ảnh ngày đó, một thời vui chơi; nào là hương đồng cỏ nội khi lang thang bắn chim câu cá cạnh bờ tre mép nước. Cũng không quên được phố chợ một thời bao ngõ đi về ấm áp tình thân...

Thứ Tư, 7 tháng 5, 2025

EM QUA DỊU DÀNG – Thơ Phan Quỳ


   

Em đi qua tôi một chiều năm cũ
Áo mơ vàng như chiếc lá thu rơi
Tôi chờ đợi một mùa xuân nắng mới
Màu hồng tươi trong rạng rỡ đất trời.
 
Em đi qua tôi một ngày giông bão
Cơn gió lay nhiều những nụ tình phơi
Ngày chìm sâu cho đêm mở lời mời
Chào hiu quạnh về trong từng nhịp thở.
 
Em đi qua tôi cho một lần dang dỡ
Tuổi xuân thì trôi dạt mấy xa xôi
Tôi đếm bước chân buồn lên phố nhỏ
Tay đón màu sương khói lên tóc, môi.
 
Em đi qua tôi sông nước chảy mù khơi
Trên tàng lá trên ngàn hoa vời vợi
Bên thềm vắng cung đàn tôi để lạnh
Dây phím chùng câu hát mãi buông lơi.
 
Em đi qua tôi ánh trăng soi rười rượi
Hắt hiu buồn lên mấy rặng lau thưa
Đâu sông Tương, đâu Tầm Dương bến đợi
Tôi lặng nhìn, thơ thẩn một trời mơ...
 
                                                    Phan Quỳ

HÃY GỌI THÁP CHÀM, NGƯỜI CHÀM! - Nguyễn Chương Mt



* Cách gọi "Chăm", chú ý, chỉ mới xuất hiện ... "qui định" từ 1979 trở lại đây mà thôi. Trong khi "CHÀM" đã là cách gọi của người Việt suốt VÀI TRĂM NĂM và người CHAM cũng chấp nhận cách gọi "CHÀM" từ người Việt, đã lâu rồi!

* Rất thú vị, hiện nay vẫn đang định vị với tên gọi "Thành phố Phan Rang - Tháp CHÀM" (không gọi "Chăm") thuộc tỉnh Ninh Thuận.

1.
Có một số người cho rằng nói "CHÀM" là không phải phép, là miệt thị (?!). Nhà nghiên cứu Inrasara lên tiếng (trong bài "Chăm hay CHÀM đúng?"):

"Người viết bài này (Inrasara) năm 1994 vẫn có một tiểu luận đăng trên tạp chí Văn học: “Ca dao - dân ca, tiếng nói trữ tình của dân tộc CHÀM” hay có bài thơ có tên là “Apsara, vũ nữ CHÀM” (Tháp nắng, 1996). Tôi phân biệt đối xử với chính tôi à?".

GỌI HẠ, MƯA ĐẦU MÙA, TRONG KHU VƯỜN MÙA HẠ - Thơ Tịnh Bình


   

 
GỌI HẠ
 
Lưng chừng nắng mùa xuân đâu rồi nhỉ?
Ngày trong veo tiếng chim gọi ngang trời
Ô cửa ban mai chút gì lạ lẫm
Gió trêu tóc mềm như thể rong chơi
 
Bằng lăng vội nở từng chùm tím biếc
Lối phố dài yên ả với hàng cây
Tiếng rao trưa rót nốt lặng tình cờ
Nghe mùa đi bước chân nào hoang hoải
 
Trong sắc nắng ẩn vòm xanh lấp lóa
Chấm loang nhòa e ấp giọt mưa sa
Lười viết câu thơ gọi mùa hạ thức
May tiếng ve nồng phượng đỏ gọi giùm ta...
 

EM THAN Ở CHỖ EM MƯA GIÓ TRỜI Ủ Ê BUỒN EM MUỐN ĐAU – Thơ Trần Vấn Lệ


   

Ai biểu khi không mưa buổi sáng,
trời buồn, tất cả cũng buồn theo!
Giàn nho, xanh mới lưng chừng nửa,
mưa lạnh, gió đùa, hết muốn leo...
 
Tôi hết muốn đi ra phố dạo
(mưa mà, bè bạn chắc chôn chân)
Nhủ lòng:  Lát nữa mưa dừng chút,
mình sẽ vi vu chút cuối tuần...
 
Mình sẽ ra ngồi hiên quán gió
biết đâu sẽ có bài thơ mưa?
Em than ở chỗ em mưa gió,
trời ủ ê buồn em muốn đau...
 
Em nói em làm anh lỡ vận,
lỡ rồi, chữ cuối, tại em nha!
Vần ơ... bỗng tiếp vần... ao ước!
Ai khiến trời nào cũng Xót.  Xa?
 
Trời hết mưa đi!  Giùm một chút!
Tôi còn dư mực viết mênh mông...
Em à, anh rất thừa kiêu ngạo,
cũng tại em thôi:  đẹp quá chừng!
*
Tôi ở phương Đoài, em hướng Bắc,
một tay đưa thẳng tới trời cao,
một tay trên ngực ngăn tim đập:
em đã làm anh nhớ thế sao?
 
Nhớ thật!  Vì thương nên mới nhớ,
vì thương, ai biểu nhớ thành thơ?
em ơi, từ sáng, anh tư lự
chừ có thơ thì... đã buổi trưa!
 
                                Trần Vấn Lệ

Thứ Ba, 6 tháng 5, 2025

HẢI CẨU 海狗 – Ung Chu, Hán Việt Thông Dụng



Tên động vật "hải cẩu" 海狗 ta mượn tiếng Trung Quốc. Tuy nhiên, hiện nay Trung Quốc phân biệt 2 dạng sau:
- Hải cẩu 海狗: hải cẩu lông, thuộc họ Arctocephalinae
- Hải báo 海豹: hải cẩu không vành tai, thuộc họ Phocidae, được xem là hải cẩu thật sự, trong đó loài Hydrurga leptonyx được người Việt gọi là "hải cẩu báo" theo cách người Trung Quốc gọi là "báo hải báo" 豹海豹.
"Hải cẩu" 海狗 nghĩa là chó biển, "hải báo" 海豹 nghĩa là beo biển.
--
"Beo" là cách đọc Hán-Việt cổ xưa của "báo" . Để giải thích điều này, chúng ta phải học chữ Nho như một nhà Nho… trong quá khứ. Còn những nhà Nho ở các thời sau, dưới sự biến đổi của ngữ âm tiếng Việt, sự phân hoá đa dạng phương ngữ, những thay đổi trong các tự điển phiên thiết… sẽ có những cách xử lí chữ Nho khác đi ít nhiều.
 
Trước hết, ta nhắc lại 2 khuôn khổ thanh điệu tiếng Việt hiện đại ứng với 8 thanh của tiếng Hán trung cổ. Các thanh bậc phù/âm (phù : nổi) gồm “ngang - hỏi - sắc” và các thanh bậc trầm/dương (trầm /: chìm) gồm “huyền - ngã - nặng”. Để có hình dung rõ hơn về mối quan hệ ngữ âm giữa 2 khuôn khổ này, chúng ta có thể lắng nghe cách các phương ngữ ở Bắc Trung bộ phát âm, mang âm hưởng của tiếng Việt trung đại.

RỪNG ĐÓT NĂM XƯA – Đinh Hoa Lư

                            Nhớ Bình Điền Huế (Đinh Hoa Lư)


Gió đón mưa về thêm đau thương trần thế
Người bước nặng nề, tìm chưa thấy tình quê
Ai đã thề và ai đã thề
Có hồn thiêng đất mẹ đang còn nghe ...
         (Gió Núi Mưa Rừng / NS Huỳnh Anh)
   
Hôm nay khi đã sang xứ người, hàng ngày "lang thang" đọc báo trên mạng chợt tôi bắt gặp những mẫu chuyện nói cây đót miền núi tại quê nhà. Chuyện là hiện nay đót được "nâng cấp, xưng tụng" lên cái tên rất là giá trị đó là LỘC RỪNG. Bài viết trên báo chí cũng là hình ảnh hay số phận hẩm hiu người dân nghèo khổ miền núi trong thời kinh tế đổi mới trong lúc người dân thành thị lại ấm no đầy đủ hơn nhiều.

TUỆ SỸ VÀ TÔ ĐÔNG PHA, NHỮNG PHƯƠNG TRỜI VIỄN MỘNG – Như Huy



Chép lại mấy đoạn nhặt tình cờ trong cuốn sách “Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng” do thầy Tuệ Sỹ viết về Tô Thức, kèm với nguyên hai bài thơ mà thầy dịch trong đó. Tặng quý bà con cô bác
                                                                                              Như Huy
*
Tr.11: “Kinh Thi và Kinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông. Dịch trải rộng con đường cho những bước đi lịch nghiệm trong cuộc tồn sinh; Thi là tâm nguyện khẩn thiết và trung thực từ giữa chỗ sâu thẳm của tình người và lòng người, được mang ra để lịch nghiệm cuộc Lữ mà Dịch đã phơi bày ra đó. Âm hưởng của Thi là tiếng vang của nhịp bước trong cuộc Lữ.
Nhưng thảm họa lịch sử, vì những tham vọng cuồng dại si ngốc của con người, càng lúc càng đổ dồn lên cuộc Lữ. Thi đã đổi cách điệu trở thành những âm vang thống thiết của Ly tao kinh. Cuộc Lữ trở thành cuộc đày ải; Thi cũng trở thành ẩn tình hoài vọng Quê Hương…
Một lúc nào đó, Cuộc Lữ bị vây phủ trong trận đồ mù mịt của tư tưởng, Thi là chứng tích sa đọa của một thời. Buổi thịnh triều rầm một nhà Đường, Thi như một con thuyền biểu diễn tất cả tài hoa của nó trên ba đào lịch sử, giữa một đại dương rập rình hiểm họa. Nó vẫn đủ khả năng đưa người vào lục địa, hay lướt sóng đi về vô tận khơi vơi hoằng viễn. Nhưng cũng có thể âm thầm xô ngã vô số người say sóng”.
 

Thứ Hai, 5 tháng 5, 2025

LỬA TỪ BI MÙA PHẬT ĐẢN – Trần Kiêm Đoàn

                                  Sáu Mươi Hai Năm Nhìn Lại


Ngày đại lễ Phật Đản năm 1963 (Phật lịch: 2507) là một dấu ấn đậm nét trong lịch sử Đạo Phật Việt Nam với sự tác động qua lại giữa quyền lực chính trị thế tục và dòng hành hoạt tâm linh tôn giáo.
 
Phong trào đòi bình đẳng tôn giáo tại Việt Nam đã nổ ra sau cả trăm năm Đạo Phật bị Pháp và thế lực viễn chinh linh hồn khống chế. Thời hậu cận đại chính quyền đương thời đối xử bất công là giọt nước tràn ly của một chuỗi phản ứng có điều kiện trong thế cuộc nhân sinh: Có bất công thì có tiếng nói kêu gọi công bằng và có áp bức thì có đấu tranh đòi hỏi tự do và bình đẳng.

ĐƯA NGƯỜI TA KHÔNG ĐƯA QUA SÔNG, SAO CÓ TIẾNG SÓNG Ở TRONG LÒNG? – Phạm Hiền Mây



I.  NHÀ THƠ THÂM TÂM - TÀI HOA MÀ VẮN SỐ
          
Sinh năm 1917, và mất năm 1950, sau một cơn bạo bệnh giữa đường rừng, Thâm Tâm qua đời, lúc ông chỉ mới vừa ba mươi ba tuổi.
Quá trẻ, và quá nổi tiếng với Tống Biệt Hành, một bài thơ viết về cuộc tiễn biệt với thể hành, thể thơ cổ phong của Trung Hoa.
Thể hành viết không dễ, người viết, ngoài tài thơ, còn phải có một tâm hồn tự do và phóng túng, thì mới đem lại thành công cho bài thơ được viết.

Ngoài Tống Biệt Hành, Thâm Tâm còn ba bài thơ khác, cũng được xem là đáng kể, đó là Trả Lời Của Người Yêu, Màu Máu Ti Gôn, Dang Dở.
Ba bài này, công bằng mà nói, nó không tròn trịa, xuất sắc và gây được tiếng vang như Tống Biệt Hành, nhưng nó lại dính tới một vụ án văn chương thời ấy, TTKh, nên nó làm xôn xao dư luận mãi cho đến tận nhiều chục năm sau.
 

Chủ Nhật, 4 tháng 5, 2025

LIÊN KHÚC TÌNH NGƯỜI LƯU VONG 3 - Nhạc Khê Kinh Kha, ca sĩ Thanh Thúy trình bày

        

                

VỀ NƠI GIÓ CÁT - Nguyễn Đức Tùng

                                  (Gởi anh Nguyễn Văn Dũng)
 


Thằng bé bước ra từ sau gốc cây vông đồng. Kiêm giật mình. Nhiều năm trước, ở chỗ này, trên đỉnh dốc gần cầu bắc qua sông Thạch Hãn, Kiêm nhìn thấy một con chim lớn bay về đậu trên ngọn cây. Cây vông đồng duy nhất trong thị xã bụi mù, tỉnh lỵ buồn hiu, địa đầu giới tuyến.
Anh không bao giờ nghĩ cái cây cao lớn ấy vẫn còn.
Nó vẫn còn.
Chào anh. Đừng sợ.
Tôi có sợ đâu?
Thế anh làm gì đây?
Tôi về thăm lại thị xã.
Trước anh ở đây à?
Tôi sinh ra ở đây. Lớn lên ở đây. Đi học ở đây.
Kiêm định nói thêm: nhưng tôi sẽ không chết ở đây đâu. Anh kịp dừng lại.
Chẳng có kẻ nào muốn chết ở đây cả, thằng bé nhận xét.
Kiêm giật mình. Nó đọc được ý nghĩ của người khác, anh tự hỏi.
Chà, anh ở đâu về?
Thằng bé gợi chuyện. Nó trạc tuổi mình vào năm ấy, Kiêm nghĩ, khoảng mười bốn.
Kiêm trả lời. Thằng bé tỏ ra lơ đãng. Im lặng một lúc, hỏi:
Từ đó về đây bao xa?
Xa. Không đi bộ được. Tôi bay qua biển Đông về Sài Gòn. Đáp xe hỏa ra Huế, từ Huế đi tàu chợ. Xuống nhà ga kia.
Anh vừa mới xuống chuyến tàu cuối?
Kiêm kể dự định. Thực ra anh chẳng có dự định nào cả. Anh không biết tại sao mình về đây.
Em tên gì? Anh hỏi.
Tháng Tư.
Không, tôi hỏi tên họ của chú mi kìa?
Tháng Tư.
Cái chi?

Thứ Bảy, 3 tháng 5, 2025

PHONG CÁCH ĂN TÔ BÚN GÁNH NGÀY XƯA – Đinh Hoa Lư

                TÔ BÚN HUẾ, ĂN RĂNG MỚI LÀ "RẤT HUẾ"

Tô bún bò Huế
 
* Ăn tô bún hay phở hay nói chung nhiều món khác thì dễ, miễn bạn có tiền; nhưng diễn tả cho người ta đọc mà giống như ĐANG ĂN MỚI LÀ CHUYỆN KHÓ ...
 
Chào bạn đọc

Có thể ai đó cho rằng "rất Huế" phải là món ăn cầu kỳ cho giới quý tộc cung đình; chưa hẳn thế, khi nói "rất Huế" trước tiên chúng ta phải nhớ đến mấy gánh hàng rong của các o các mệ ngày ngày kẻo kẹt gánh bún, bán rao dọc theo mấy con phố, bến xe, thậm chí trong mấy ngõ kiệt Thành Nội. Mà hàng gánh rong Huế thì đặc trưng nhất cho chúng ta ngồi nhớ lại đó là mấy gánh bún xáo ngày trước.

Triêng (gánh) bún bò Huế

TÔI QUÊN MÌNH MẤY TUỔI ĐÂY KHÔNG LÀ LIÊN KHƯƠNG – Trần Vấn Lệ



Hôm qua, 1 tháng 5, không có Lễ Lao Động.  Người ta vẫn kiếm sống, đi làm để kiếm ăn...
 
Tôi, dừng bước lang thang, kêu ly đen bèo bọt.  Cô bán hàng vuốt tóc, rót cà phê nửa ly...
 
Ra hành lang, ngồi lỳ.  Tôi, nửa giờ ngắm phố.  Gần đó là cái chợ có người ra kẻ vào...
 
Tôi không có bạn nào / để nhâm nhi tâm sự.  Mỗi giây một quá khứ.  30 tháng Bốn xa...
 
Nửa giờ... cũng trôi qua.  Bọt bèo và khói thuốc.  Tôi như nai-nẻo-thuộc, ra parking, vi vu...(*)
 
*
Ngày hôm qua âm u. 
 
Hôm nay như mùa Thu / đang có rồi, lạnh lắm... Ai cũng mặc áo ấm,  tôi cũng như... trần ai!
 
Không nghĩ tới ngày mai (vì ngày mai chưa tới).  Tôi thản nhiên không đợi / bài thơ này thành... thơ!
 
Có thể trời sắp mưa.  Người ta lại vuốt tóc?  Hàng cây con phố dọc, tôi thở dài... Ngó ngang!
 
Thơ tôi... là khói nhang / ai thắp ngoài nghĩa địa.  Ngày đầu tháng Năm né / gió mưa ngày hôm qua!
 
Tôi thở khói thuốc phà,
       tóc ai dài như suối.
           Tôi quên mình mấy tuổi, 
                   đây, không là Liên Khương...
 
                                                                                      Trần Vấn Lệ
(*) Thơ Huy Cận:
"Nai cao gót lũng sương mù / xuống rừng nẻo thuộc nhìn Thu mới về... sắc trời nhàn nhạt dưới khe..."

THẮNG VINH QUANG MÀ BẠI CŨNG ANH HÙNG! – Phạm Hiền Mây



 I.   LÊ TẤT ĐIỀU, CAO TẦN, KIỀU PHONG

Cao Tần là bút hiệu khi làm thơ của nhà văn Lê Tất Điều. Còn khi viết báo, ông lấy tên là Kiều Phong.
Ngoài viết văn, làm thơ, ông còn đi dạy học. Ông từng nhận giải thưởng của trung tâm văn bút trước năm 1975 với thể loại tiểu thuyết. Sau biến cố bảy mươi lăm, ông di tản.
Thơ ông viết không nhiều nhưng ra tấm ra món. Từng bài, từng bài, đều trọn vẹn và hay, thậm chí xuất sắc. Cao Tần có một giọng thơ rất riêng, độc đáo, không giông giống, không na ná với bất kỳ ai, nên khi thơ ông vừa xuất hiện, là lập tức, làm xôn xao cộng đồng người di tản Việt Nam tại hải ngoại.

Nhà phê bình văn học Đặng Tiến thì cho rằng, bút pháp Cao Tần khéo léo, già dặn, nắm vững quy luật của ngôn ngữ, giàu kinh nghiệm diễn đạt và sành tâm lý, nên lay động được tâm hồn người đọc.