BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 7 tháng 5, 2025

GỌI HẠ, MƯA ĐẦU MÙA, TRONG KHU VƯỜN MÙA HẠ - Thơ Tịnh Bình


   

 
GỌI HẠ
 
Lưng chừng nắng mùa xuân đâu rồi nhỉ?
Ngày trong veo tiếng chim gọi ngang trời
Ô cửa ban mai chút gì lạ lẫm
Gió trêu tóc mềm như thể rong chơi
 
Bằng lăng vội nở từng chùm tím biếc
Lối phố dài yên ả với hàng cây
Tiếng rao trưa rót nốt lặng tình cờ
Nghe mùa đi bước chân nào hoang hoải
 
Trong sắc nắng ẩn vòm xanh lấp lóa
Chấm loang nhòa e ấp giọt mưa sa
Lười viết câu thơ gọi mùa hạ thức
May tiếng ve nồng phượng đỏ gọi giùm ta...
 

EM THAN Ở CHỖ EM MƯA GIÓ TRỜI Ủ Ê BUỒN EM MUỐN ĐAU – Thơ Trần Vấn Lệ


   

Ai biểu khi không mưa buổi sáng,
trời buồn, tất cả cũng buồn theo!
Giàn nho, xanh mới lưng chừng nửa,
mưa lạnh, gió đùa, hết muốn leo...
 
Tôi hết muốn đi ra phố dạo
(mưa mà, bè bạn chắc chôn chân)
Nhủ lòng:  Lát nữa mưa dừng chút,
mình sẽ vi vu chút cuối tuần...
 
Mình sẽ ra ngồi hiên quán gió
biết đâu sẽ có bài thơ mưa?
Em than ở chỗ em mưa gió,
trời ủ ê buồn em muốn đau...
 
Em nói em làm anh lỡ vận,
lỡ rồi, chữ cuối, tại em nha!
Vần ơ... bỗng tiếp vần... ao ước!
Ai khiến trời nào cũng Xót.  Xa?
 
Trời hết mưa đi!  Giùm một chút!
Tôi còn dư mực viết mênh mông...
Em à, anh rất thừa kiêu ngạo,
cũng tại em thôi:  đẹp quá chừng!
*
Tôi ở phương Đoài, em hướng Bắc,
một tay đưa thẳng tới trời cao,
một tay trên ngực ngăn tim đập:
em đã làm anh nhớ thế sao?
 
Nhớ thật!  Vì thương nên mới nhớ,
vì thương, ai biểu nhớ thành thơ?
em ơi, từ sáng, anh tư lự
chừ có thơ thì... đã buổi trưa!
 
                                Trần Vấn Lệ

Thứ Ba, 6 tháng 5, 2025

HẢI CẨU 海狗 – Ung Chu, Hán Việt Thông Dụng



Tên động vật "hải cẩu" 海狗 ta mượn tiếng Trung Quốc. Tuy nhiên, hiện nay Trung Quốc phân biệt 2 dạng sau:
- Hải cẩu 海狗: hải cẩu lông, thuộc họ Arctocephalinae
- Hải báo 海豹: hải cẩu không vành tai, thuộc họ Phocidae, được xem là hải cẩu thật sự, trong đó loài Hydrurga leptonyx được người Việt gọi là "hải cẩu báo" theo cách người Trung Quốc gọi là "báo hải báo" 豹海豹.
"Hải cẩu" 海狗 nghĩa là chó biển, "hải báo" 海豹 nghĩa là beo biển.
--
"Beo" là cách đọc Hán-Việt cổ xưa của "báo" . Để giải thích điều này, chúng ta phải học chữ Nho như một nhà Nho… trong quá khứ. Còn những nhà Nho ở các thời sau, dưới sự biến đổi của ngữ âm tiếng Việt, sự phân hoá đa dạng phương ngữ, những thay đổi trong các tự điển phiên thiết… sẽ có những cách xử lí chữ Nho khác đi ít nhiều.
 
Trước hết, ta nhắc lại 2 khuôn khổ thanh điệu tiếng Việt hiện đại ứng với 8 thanh của tiếng Hán trung cổ. Các thanh bậc phù/âm (phù : nổi) gồm “ngang - hỏi - sắc” và các thanh bậc trầm/dương (trầm /: chìm) gồm “huyền - ngã - nặng”. Để có hình dung rõ hơn về mối quan hệ ngữ âm giữa 2 khuôn khổ này, chúng ta có thể lắng nghe cách các phương ngữ ở Bắc Trung bộ phát âm, mang âm hưởng của tiếng Việt trung đại.

RỪNG ĐÓT NĂM XƯA – Đinh Hoa Lư

                            Nhớ Bình Điền Huế (Đinh Hoa Lư)


Gió đón mưa về thêm đau thương trần thế
Người bước nặng nề, tìm chưa thấy tình quê
Ai đã thề và ai đã thề
Có hồn thiêng đất mẹ đang còn nghe ...
         (Gió Núi Mưa Rừng / NS Huỳnh Anh)
   
Hôm nay khi đã sang xứ người, hàng ngày "lang thang" đọc báo trên mạng chợt tôi bắt gặp những mẫu chuyện nói cây đót miền núi tại quê nhà. Chuyện là hiện nay đót được "nâng cấp, xưng tụng" lên cái tên rất là giá trị đó là LỘC RỪNG. Bài viết trên báo chí cũng là hình ảnh hay số phận hẩm hiu người dân nghèo khổ miền núi trong thời kinh tế đổi mới trong lúc người dân thành thị lại ấm no đầy đủ hơn nhiều.

TUỆ SỸ VÀ TÔ ĐÔNG PHA, NHỮNG PHƯƠNG TRỜI VIỄN MỘNG – Như Huy



Chép lại mấy đoạn nhặt tình cờ trong cuốn sách “Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng” do thầy Tuệ Sỹ viết về Tô Thức, kèm với nguyên hai bài thơ mà thầy dịch trong đó. Tặng quý bà con cô bác
                                                                                              Như Huy
*
Tr.11: “Kinh Thi và Kinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông. Dịch trải rộng con đường cho những bước đi lịch nghiệm trong cuộc tồn sinh; Thi là tâm nguyện khẩn thiết và trung thực từ giữa chỗ sâu thẳm của tình người và lòng người, được mang ra để lịch nghiệm cuộc Lữ mà Dịch đã phơi bày ra đó. Âm hưởng của Thi là tiếng vang của nhịp bước trong cuộc Lữ.
Nhưng thảm họa lịch sử, vì những tham vọng cuồng dại si ngốc của con người, càng lúc càng đổ dồn lên cuộc Lữ. Thi đã đổi cách điệu trở thành những âm vang thống thiết của Ly tao kinh. Cuộc Lữ trở thành cuộc đày ải; Thi cũng trở thành ẩn tình hoài vọng Quê Hương…
Một lúc nào đó, Cuộc Lữ bị vây phủ trong trận đồ mù mịt của tư tưởng, Thi là chứng tích sa đọa của một thời. Buổi thịnh triều rầm một nhà Đường, Thi như một con thuyền biểu diễn tất cả tài hoa của nó trên ba đào lịch sử, giữa một đại dương rập rình hiểm họa. Nó vẫn đủ khả năng đưa người vào lục địa, hay lướt sóng đi về vô tận khơi vơi hoằng viễn. Nhưng cũng có thể âm thầm xô ngã vô số người say sóng”.
 

Thứ Hai, 5 tháng 5, 2025

LỬA TỪ BI MÙA PHẬT ĐẢN – Trần Kiêm Đoàn

                                  Sáu Mươi Hai Năm Nhìn Lại


Ngày đại lễ Phật Đản năm 1963 (Phật lịch: 2507) là một dấu ấn đậm nét trong lịch sử Đạo Phật Việt Nam với sự tác động qua lại giữa quyền lực chính trị thế tục và dòng hành hoạt tâm linh tôn giáo.
 
Phong trào đòi bình đẳng tôn giáo tại Việt Nam đã nổ ra sau cả trăm năm Đạo Phật bị Pháp và thế lực viễn chinh linh hồn khống chế. Thời hậu cận đại chính quyền đương thời đối xử bất công là giọt nước tràn ly của một chuỗi phản ứng có điều kiện trong thế cuộc nhân sinh: Có bất công thì có tiếng nói kêu gọi công bằng và có áp bức thì có đấu tranh đòi hỏi tự do và bình đẳng.

ĐƯA NGƯỜI TA KHÔNG ĐƯA QUA SÔNG, SAO CÓ TIẾNG SÓNG Ở TRONG LÒNG? – Phạm Hiền Mây



I.  NHÀ THƠ THÂM TÂM - TÀI HOA MÀ VẮN SỐ
          
Sinh năm 1917, và mất năm 1950, sau một cơn bạo bệnh giữa đường rừng, Thâm Tâm qua đời, lúc ông chỉ mới vừa ba mươi ba tuổi.
Quá trẻ, và quá nổi tiếng với Tống Biệt Hành, một bài thơ viết về cuộc tiễn biệt với thể hành, thể thơ cổ phong của Trung Hoa.
Thể hành viết không dễ, người viết, ngoài tài thơ, còn phải có một tâm hồn tự do và phóng túng, thì mới đem lại thành công cho bài thơ được viết.

Ngoài Tống Biệt Hành, Thâm Tâm còn ba bài thơ khác, cũng được xem là đáng kể, đó là Trả Lời Của Người Yêu, Màu Máu Ti Gôn, Dang Dở.
Ba bài này, công bằng mà nói, nó không tròn trịa, xuất sắc và gây được tiếng vang như Tống Biệt Hành, nhưng nó lại dính tới một vụ án văn chương thời ấy, TTKh, nên nó làm xôn xao dư luận mãi cho đến tận nhiều chục năm sau.
 

Chủ Nhật, 4 tháng 5, 2025

LIÊN KHÚC TÌNH NGƯỜI LƯU VONG 3 - Nhạc Khê Kinh Kha, ca sĩ Thanh Thúy trình bày

        

                

VỀ NƠI GIÓ CÁT - Nguyễn Đức Tùng

                                  (Gởi anh Nguyễn Văn Dũng)
 


Thằng bé bước ra từ sau gốc cây vông đồng. Kiêm giật mình. Nhiều năm trước, ở chỗ này, trên đỉnh dốc gần cầu bắc qua sông Thạch Hãn, Kiêm nhìn thấy một con chim lớn bay về đậu trên ngọn cây. Cây vông đồng duy nhất trong thị xã bụi mù, tỉnh lỵ buồn hiu, địa đầu giới tuyến.
Anh không bao giờ nghĩ cái cây cao lớn ấy vẫn còn.
Nó vẫn còn.
Chào anh. Đừng sợ.
Tôi có sợ đâu?
Thế anh làm gì đây?
Tôi về thăm lại thị xã.
Trước anh ở đây à?
Tôi sinh ra ở đây. Lớn lên ở đây. Đi học ở đây.
Kiêm định nói thêm: nhưng tôi sẽ không chết ở đây đâu. Anh kịp dừng lại.
Chẳng có kẻ nào muốn chết ở đây cả, thằng bé nhận xét.
Kiêm giật mình. Nó đọc được ý nghĩ của người khác, anh tự hỏi.
Chà, anh ở đâu về?
Thằng bé gợi chuyện. Nó trạc tuổi mình vào năm ấy, Kiêm nghĩ, khoảng mười bốn.
Kiêm trả lời. Thằng bé tỏ ra lơ đãng. Im lặng một lúc, hỏi:
Từ đó về đây bao xa?
Xa. Không đi bộ được. Tôi bay qua biển Đông về Sài Gòn. Đáp xe hỏa ra Huế, từ Huế đi tàu chợ. Xuống nhà ga kia.
Anh vừa mới xuống chuyến tàu cuối?
Kiêm kể dự định. Thực ra anh chẳng có dự định nào cả. Anh không biết tại sao mình về đây.
Em tên gì? Anh hỏi.
Tháng Tư.
Không, tôi hỏi tên họ của chú mi kìa?
Tháng Tư.
Cái chi?

Thứ Bảy, 3 tháng 5, 2025

PHONG CÁCH ĂN TÔ BÚN GÁNH NGÀY XƯA – Đinh Hoa Lư

                TÔ BÚN HUẾ, ĂN RĂNG MỚI LÀ "RẤT HUẾ"

Tô bún bò Huế
 
* Ăn tô bún hay phở hay nói chung nhiều món khác thì dễ, miễn bạn có tiền; nhưng diễn tả cho người ta đọc mà giống như ĐANG ĂN MỚI LÀ CHUYỆN KHÓ ...
 
Chào bạn đọc

Có thể ai đó cho rằng "rất Huế" phải là món ăn cầu kỳ cho giới quý tộc cung đình; chưa hẳn thế, khi nói "rất Huế" trước tiên chúng ta phải nhớ đến mấy gánh hàng rong của các o các mệ ngày ngày kẻo kẹt gánh bún, bán rao dọc theo mấy con phố, bến xe, thậm chí trong mấy ngõ kiệt Thành Nội. Mà hàng gánh rong Huế thì đặc trưng nhất cho chúng ta ngồi nhớ lại đó là mấy gánh bún xáo ngày trước.

Triêng (gánh) bún bò Huế

TÔI QUÊN MÌNH MẤY TUỔI ĐÂY KHÔNG LÀ LIÊN KHƯƠNG – Trần Vấn Lệ



Hôm qua, 1 tháng 5, không có Lễ Lao Động.  Người ta vẫn kiếm sống, đi làm để kiếm ăn...
 
Tôi, dừng bước lang thang, kêu ly đen bèo bọt.  Cô bán hàng vuốt tóc, rót cà phê nửa ly...
 
Ra hành lang, ngồi lỳ.  Tôi, nửa giờ ngắm phố.  Gần đó là cái chợ có người ra kẻ vào...
 
Tôi không có bạn nào / để nhâm nhi tâm sự.  Mỗi giây một quá khứ.  30 tháng Bốn xa...
 
Nửa giờ... cũng trôi qua.  Bọt bèo và khói thuốc.  Tôi như nai-nẻo-thuộc, ra parking, vi vu...(*)
 
*
Ngày hôm qua âm u. 
 
Hôm nay như mùa Thu / đang có rồi, lạnh lắm... Ai cũng mặc áo ấm,  tôi cũng như... trần ai!
 
Không nghĩ tới ngày mai (vì ngày mai chưa tới).  Tôi thản nhiên không đợi / bài thơ này thành... thơ!
 
Có thể trời sắp mưa.  Người ta lại vuốt tóc?  Hàng cây con phố dọc, tôi thở dài... Ngó ngang!
 
Thơ tôi... là khói nhang / ai thắp ngoài nghĩa địa.  Ngày đầu tháng Năm né / gió mưa ngày hôm qua!
 
Tôi thở khói thuốc phà,
       tóc ai dài như suối.
           Tôi quên mình mấy tuổi, 
                   đây, không là Liên Khương...
 
                                                                                      Trần Vấn Lệ
(*) Thơ Huy Cận:
"Nai cao gót lũng sương mù / xuống rừng nẻo thuộc nhìn Thu mới về... sắc trời nhàn nhạt dưới khe..."

THẮNG VINH QUANG MÀ BẠI CŨNG ANH HÙNG! – Phạm Hiền Mây



 I.   LÊ TẤT ĐIỀU, CAO TẦN, KIỀU PHONG

Cao Tần là bút hiệu khi làm thơ của nhà văn Lê Tất Điều. Còn khi viết báo, ông lấy tên là Kiều Phong.
Ngoài viết văn, làm thơ, ông còn đi dạy học. Ông từng nhận giải thưởng của trung tâm văn bút trước năm 1975 với thể loại tiểu thuyết. Sau biến cố bảy mươi lăm, ông di tản.
Thơ ông viết không nhiều nhưng ra tấm ra món. Từng bài, từng bài, đều trọn vẹn và hay, thậm chí xuất sắc. Cao Tần có một giọng thơ rất riêng, độc đáo, không giông giống, không na ná với bất kỳ ai, nên khi thơ ông vừa xuất hiện, là lập tức, làm xôn xao cộng đồng người di tản Việt Nam tại hải ngoại.

Nhà phê bình văn học Đặng Tiến thì cho rằng, bút pháp Cao Tần khéo léo, già dặn, nắm vững quy luật của ngôn ngữ, giàu kinh nghiệm diễn đạt và sành tâm lý, nên lay động được tâm hồn người đọc.

Thứ Tư, 30 tháng 4, 2025

QUÊ HƯƠNG TRONG NỖI NHỚ - Thơ Khê Kinh Kha


   

 
tháng tư, cuối đầu, nhớ
những đoạn đường đã qua
những bờ sông, ngọn cỏ
những lũy tre, bờ đê
 
tháng tư, âm thầm, nhớ
những vầng trăng xa xưa
năm tháng giờ héo úa
như cánh đồng cháy khô
mẹ gìa như lá thu
em thơ như cỏ dại
bạn bè như bèo trôi
tháng ngày như độc dược
tưới vào giữa tim tôi
quê hương, quê hương ơi!
 
tháng tư, gục đầu, tủi
ôi cuối đời rồi sao
quê hương ai thay đổi
tình người ai vá khâu
 
tháng tư, ngậm ngùi, khóc
quê hương trong nỗi nhớ
đoạn trường trong nước mắt
như sóng trên đại dương
như mưa giữa Trường Sơn
như nước giòng Cửu Long
như rêu xanh Nội Thành
như điêu tàn Tháp Chàm
như Đà Lạt Than Thở
như niềm đau Vọng Phu
tình em dù mặn mà
lòng mẹ dù bao la
con thơ như nụ hoa
không xóa nỗi xót xa
 
tháng tư, ôm mặt, khóc
quê hương, quê hương ơi!
tháng ngày theo gío bay
trăm năm rồi cũng hết
về đâu hồn ta ơi?
về dâu hồn ta ơi?
 
                 khê kinh kha

QUA HẦM RÙ RỲ - Đinh Hoa Lư



NHA TRANG NGÀY TÔI VỀ
 
Thế là tôi đã mất một ngày và một đêm trên chuyến tàu chợ vào Nha Trang.  Người soát vé báo trước con tàu chợ tôi đi chỉ ghé ga chót là Ga Nha Trang. Chỉ có Tàu Thống Nhất từ ngoài bắc mới đi thẳng vào Sài Gòn. Thời gian ở tù tại Trại 4 Ái Tử, Quảng Trị tôi từng nghe có tàu Thống Nhất. Những bài đăng trên tờ báo Nhân Dân trong cái "căn- tin" tôi có dịp đọc vào cuối tuần, ngày nghỉ lao động. Hai chữ "căn tin" người viết không đặt ra mà trại từng gọi cho cái phòng đọc báo. Những tờ báo Nhân Dân được đóng nẹp cẩn thận, móc trên vách đất của "thư viện tù" trong trại. Có cơ hội, chúng tôi hay đánh cắp vài tờ, giấu vào bụng, về lại lán xé nhỏ để vấn thuốc. Thèm đọc tin, chúng tôi chẳng có chọn lựa nào ngoài những tờ báo Nhân Dân hay Quân Đội Nhân Dân. Tôi nhớ có dịp đọc tập tự truyện nhỏ có cái tên "Cây Đa Bến Cũ" của hàng binh "Phạm văn Đính" hay trung tá Đính trong QLVNCH từng được cho tù đọc tại đây. Tôi nhớ mang máng ông này có thăm trại Một, Ái Tử sau tháng 5. 1975 lúc chúng tôi vừa từ Ba Lòng được chuyển về lập Trại Ái Tử.
 

ĐÓA HOA THIÊNG, NGHÌN NĂM SAU TRƯỚC, THỞ – Thơ Tịnh Bình


   

 
ĐÓA HOA THIÊNG
 
Rồi một ngày phải đến
Ôi giây phút lìa xa
Cơn vô thường sinh tử
Những nỗi buồn trong ta
 
Người lang thang sáu cõi
Lênh đênh kiếp luân hồi
Đâu thân bằng quyến thuộc
Chỉ một mình đơn côi
 
Người về nơi nắng lóa
Còn trao nhau nụ cười
Vô ưu đôi mắt khép
Nhủ đời quán trọ thôi
 
Ai hay trời phương ngoại
Bát ngát cõi sen miền
Chợt nhận ra tịnh độ
Tâm này đóa hoa thiêng...
 

Thứ Hai, 21 tháng 4, 2025

“VÔ TRI” 無知 CÓ NGHĨA LÀ GÌ? – Hoài Thương,Tiếng Việt Giàu Đẹp



Bạn đã bao giờ nghe ai đó nói "đừng vô tri quá" chưa? Từ "vô tri" không chỉ đơn giản là thiếu hiểu biết mà còn mang nhiều sắc thái khác nhau trong cuộc sống, từ văn học đến mạng xã hội. Vậy rốt cuộc "vô tri" có nghĩa là gì và tại sao nó lại được dùng nhiều đến vậy? Hãy cùng Tiếng Việt giàu đẹp tìm hiểu nhé!
 
"Vô tri" là một từ gốc Hán Việt, vừa là một tính từ vừa là một từ ghép, được tạo thành từ "vô" () nghĩa là không và "tri" () nghĩa là biết, hiểu biết. Từ này dùng để diễn tả trạng thái không có nhận thức, thiếu hiểu biết hoặc không thể nhận thức một cách rõ ràng.
Trong ngôn ngữ và văn hóa, "vô tri" không chỉ là một khái niệm ngôn ngữ mà còn phản ánh cách con người đánh giá về sự hiểu biết và tri thức. Trong tiếng Việt, "vô tri" thường được dùng để chỉ trạng thái thiếu nhận thức và đôi khi mang hàm ý tiêu cực. Trong văn chương, "vô tri" được nhắc đến như một đặc điểm tiêu biểu của những người không biết suy nghĩ, không có nhận thức về thế giới xung quanh. Chẳng hạn như trong ca dao Việt Nam có câu:

"Hoài lời nói kẻ vô tri
Một trăm gánh chì đúc chẳng nên chuông."

Trong ngôn ngữ hiện đại, "vô tri" không chỉ giữ nguyên ý nghĩa gốc mà còn xuất hiện phổ biến trên mạng xã hội với sắc thái hài hước hoặc chê bai. Cách dùng này bắt nguồn từ các chương trình truyền hình thực tế, nơi những hành vi hoặc câu nói thiếu suy nghĩ bị gọn mác "vô tri". Các biến thể phổ biến bao gồm "cười vô tri" (cười một cách vô nghĩa) hay "nói vô tri" (phát ngôn mà không suy nghĩ).
Tóm lại, "vô tri" là một tính từ mang ý nghĩa liên quan đến sự thiếu nhận thức và suy nghĩ. Trong lịch sử và văn hóa, nó mang hàm ý tiêu cực, nhưng trong ngôn ngữ hiện đại, từ này đã được biến tấu và sử dụng theo những cách hài hước hoặc chê bai trong giao tiếp hàng ngày.

Hi vọng qua bài viết này, bạn đã có góc nhìn rõ hơn về ý nghĩa của từ “vô tri” và cách nó được sử dụng trong ngôn ngữ cũng như đời sống. Ngôn ngữ luôn phản ánh tư duy và văn hóa, vì vậy hiểu đúng và dùng đúng sẽ giúp chúng ta giao tiếp hiệu quả hơn.
Nếu bạn có góc nhìn hay ví dụ thú vị nào về “vô tri”, đừng ngần ngại chia sẻ cùng Tiếng Việt giàu đẹp nhé!
                                                                                     Hoài Thương
*
Tài liệu tham khảo:

Tú Anh. (2023, ngày 30 tháng 05). Từ điển gen Z: ‘Vô tri’ là gì? Báo Ngôi Sao VnExpress.
🍀 Theo dõi trang Tiếng Việt giàu đẹp - Giải chữ giữ đời để biết thêm nhiều kiến thức thú vị về tiếng Việt.

BÙI GIÁNG VÀ NÀNG HOA HẬU MỘT CON


Ảnh: Nhà thơ Bùi Giáng và hoa hậu Công Thị Nghĩa
 
Bóng mây trời cũ hao mòn
Chiêm bao náo động riêng còn hai tay

Bùi Giáng là một hiện tượng thơ ca đặc biệt của Việt Nam. Trong di sản văn chương ông để lại cho hậu thế có những bài thơ, câu thơ lạ lùng, gợi lên nhiều suy nghĩ.

"Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con"

Đọc câu thơ trên, rất nhiều người nghĩ rằng đây là một "hiện tượng lạ", đôi mắt của ai đó đang làm hai việc khác nhau. Một con mắt thì khóc và con mắt còn lại không biết đang làm gì?

Tứ thơ này cũng đã được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hiểu theo cách của ông và viết thành nhạc "Con mắt còn lại":

"Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn một thành hai
Nhìn em yêu thương, nhìn em thú dữ..."

Có thể hiểu nhạc của Trịnh Công Sơn là một sự ngẫu hứng dựa trên câu chữ chứ hoàn toàn không liên quan đến ý nghĩa thật trong câu thơ của cụ Bùi Giáng. Trung niên thi sĩ Bùi Giáng đã khóc một cách rất nghiêm túc, khóc bằng cả hai con mắt, khóc cho một đối tượng, một con người cụ thể đó là người phụ nữ đã có MỘT ĐỨA CON.

Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một (ĐỨA) con.

"Người một con" trong câu thơ của cụ Bùi Giáng là hoa hậu đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa năm (1955-1956) - bà Công Thị Nghĩa, tức hoa hậu Thu Trang. Bà Nghĩa yêu một ông đạo diễn có tên là T.N.H và có con với ông. Thế nhưng sau đó bà biết này ông này đã có vợ con nhưng giấu và lừa dối bà.

TRƯỚC CỬA THỜI GIAN - Thơ Trần Vấn Lệ

 
 

 
Hôm qua trời không mưa. 
Trời mù sáng đến tối.
Hôm nay không nắng rọi
là biết trời vẫn mù!
 
Bây giờ chưa mùa Thu
cũng chưa là mùa Hạ...
Đang Xuân.  Sao nhiều lá
chưa đủ xanh đã vàng?
 
Lá rơi xuống mặt đường. 
Lá bay trên lề cỏ.
Tội nghiệp, kia, con thỏ
nó đứng ngó đâu đâu...
 
đôi mắt nó chữ O,
tròn vo như hoa búp...
Có thể nó sẽ núp
khi mà gió lạnh qua...
 
Có thể tất cả già
mùa Xuân rồi mùa Hạ...
rồi rừng Thu thay lá
rồi mùa Đông tuyết băng!
 
Chỉ hai chữ Thời Gian
mà bốn mùa thay đổi!
Chỉ hai chữ nông nỗi
mà nước non Việt mình...
 
Những ngôi mộ làm thinh,
những bình tro câm lặng
... như hôm qua, không nắng
... như hôm nay, vậy thôi!
 
                         Trần Vấn Lệ

TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI, TỪ KHI MỚI RA ĐỜI, NGƯỜI ƠI! – Phạm Hiền Mây



I. TÌNH CA RA ĐỜI TRƯỚC KHI ĐẤT NƯỚC CHIA ĐÔI

Phạm Duy sáng tác Tình Ca vào năm một ngàn chín trăm năm mươi hai.
Tình Ca là tình yêu của một người Việt Nam đối với quê hương, đất nước Việt Nam của mình.
Yêu nước chính là yêu tiếng Việt, tiếng cha sanh mẹ đẻ, tiếng ầu ơ trưa hè, tiếng hò ơi ngoài đồng, cả tiếng khóc trẻ thơ lẫn tiếng cười đôi lứa, cứ thế, qua bao năm bao tháng, theo mệnh nước nổi trôi.
Yêu nước chính là yêu giang sơn gấm vóc, yêu  Trường Sơn hùng vĩ, yêu dòng Cửu Long xanh ngắt mơ màng, yêu bãi bồi sông Hồng, yêu lững lờ sông Hương, vốn từ ngàn xưa, trong cùng một dải nối liền tình nam nghĩa bắc.
Yêu nước chính là yêu giống nòi dân Việt, yêu những thôn nữ, những nông phu chân lấm tay bùn, yêu cả các triều đại xa xưa, biết thương dân và vì dân mà giữ gìn bờ cõi.
TÌNH CA không chỉ là một ca khúc về tình yêu, tình yêu non nước, mà TÌNH CA còn là một bài thơ, bài ca dao, dân ca, mượt mà, ngọt ngào, dịu dàng và vô cùng sâu lắng.

HƯƠNG CHẠC CHÌU – Đinh Hoa Lư


Hình dây chạc chìu
từ cây hoang giờ đây cũng như nhiều loại cây hoang dại khác chạc chìu đều thành thuốc nam trị bệnh
 
Chào bạn đọc
   
Thưởng thức hương hoa từ lâu là thú vui của tao nhân, mặc khách. Chuyện vui thú điền viên người đời thường lấy hoa đẹp và hương hoa làm trọng. Dù cảnh nhà chỉ một chiếc áo bông "nực làm gối lạnh làm mền" như Cụ Nguyễn công Trứ ngày xưa nhưng trong vườn ắt hẳn không thiếu gì kỳ hoa dị thảo...
 

HẾT THỜI, ĐOẢN CÚ, ĐÀO CŨNG NỞ, CHIM/NGƯỜI, 4/30, Ở QUÁ XA – Thơ Chu Vương Miện


   

 
HẾT THỜI
 
tụ đây ngưu ẩm rượu hoàng hoa
liếc quanh toàn một lũ vượn già ?
uống mãi mà sao chưa thấy xỉn
thì ra chỉ uống rặt nước trà
 
biết thế thà đừng có gặp nhau
cứ văn vói veo chuyện tào lao ?
đâu phải rú rừng đầy khỉ vượn
nhìn nhau một lúc váng cả đầu ?
*
trèo lên cây bưởi làm chi nữa
hỏi ra trất uất có chồng rồi ?
nụ tầm xuân nở đầy bờ rụộng
nói làm gì ? chỉ uổng công thôi ?
 
phía dưới một vùng hoa cà tím
phía trên hoa bưởi trắng bời bời
cá mắc câu nằm yên không cục cựa
chim trong lồng cũng đứng ngó nhau thôi ?