BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 23 tháng 6, 2021

BẮC NINH THI THOẠI (KỲ 6) - Nguyễn Khôi



Bắc Ninh thi thoại của Nguyễn Khôi (Đình Bảng) đã tái bản nhiều lần ở Việt Nam, độc giả trong và ngoài nước đánh giá cao giá trị nghệ thuật của tác phẩm này. Xin trích một số chương giới thiệu cùng bạn đọc.
 

Tập II
(Phần ngoại biên)
Tặng người em đồng hương – Tiến sỹ Nguyễn Văn Hoa

 
Bài 4:
THĂM HÀN SAN TỰ
 
Đến Tô Châu ai cũng háo hức đi thăm Hàn Sơn Tự. là ngôi chùa do Thiền sư Hy Thiên, pháp danh là Hàn Sơn Tử Giả xây vào khoảng năm Thiên Giám đời Lương, thuộc Nam Triều (Thế Kỷ Vl), tại trấn Phong Kiều bên ngoài Xương môn, phía tây thành Cô Tô (Nay là Tô Châu). Thiền Sư lấy tên hiệu (pháp danh) của mình đặt tên cho chùa “Hàn Sơn Tự” để làm kỷ niệm. Từ đây thiền sư lại vân du đi chơi núi Lạnh (Hàn San) đó là núi Thiên Thai (nơi sinh ra dòng tu Thiên Thai Tông) kết bạn với Thiền sư Thập Đắc Phong Can. Bức hoành phi với bốn chữ đại tự “Hàn Sơn Thập Đắc” có nghĩa là chùa Hàn Sơn lấy tên hai người là Hàn Sơn và Thập Đắc mà lưu danh.
Trải qua nhiều biến động của các triều đại, chùa Hàn San bị binh lửa đời Thanh đốt cháy (năm 1860), đến năm Quang Tự thứ 3 (1904) chùa được xây dựng lại với quy mô dáng dấp như còn thấy ngày nay, gồm có: Đại điện, Tàng kinh lâu (lầu chứa kinh), Chung lâu (lầu chuông), Phong giang lâu (lầu ngắm rừng phong bên sông), bi lang (hành lang đặt bia). Điều thú vị là trong sân chùa có đặt tượng thi sĩ Trương Kế, mà theo tục lệ: các tao nhân mặc khách tứ xứ đến viếng chùa ai nấy đều tới vuốt nhẹ vào bàn tay pho tượng với ước nguyện để được tăng thêm nội lực, được chia sẻ một chút hồn thơ… đồng thời trong chùa còn giữ nhiều cổ vật quý giá, trong đó có tấm bia khắc bài thơ nổi tiếng Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế đời Đường (khoảng trước năm 754).
 
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
 
Dịch thơ:
 
Trăng tà, tiếng qụa kêu sương
Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
                                    Nguyễn Hàm Ninh

(Trước đây cho là của Tản Đà dịch)

Dịch “Thuyền ai đậu bến Cô Tô” là dịch thoát ý, dịch đúng phải là:
 
Trăng lặn, sương mờ, nghe tiếng quạ
Lửa chài cây ánh, giấc chưa yên
Cô Tô bên mái Hàn San Tự
Đêm muộn chuông ngân vẳng đến thuyền.
                                        Bùi Khánh Đản
 
Quạ kêu, trăng xế, sương tuôn
Lửa chài cây bến, giấc buồn ngó nhau
Chùa Hàn San mé Tô Châu
Nửa đêm bỗng tiếng chuông đâu đến thuyền.
                                                       Hoài Anh
 
Sự ra đời của bài thơ: theo giai thoại thì Trương Kế người Tương Châu một lần đi thi trượt (tiến sỹ), theo dòng Vận Hà bắc nam,đêm đỗ thuyền ở bến Phong Kiều (bến Cây Phong) bên chùa Hàn San (Hàn San đây là tên chùa, chứ không có núi Lạnh như một số dịch giả suy diễn qua văn bản thơ… vào thời bấy giờ (đời Đường) người ta có “phân dạ chung” (chuông chia đêm) đánh vào lúc nửa đêm… Thi Sỹ buồn (vì thi trượt) nằm trong thuyền chập chờn bên ngọn lửa của ngư ông(lão đánh cá) giữa trời sương, trăng lặn lảnh tiếng quạ kêu cùng tiếng chuông chùa Hàn San nửa đêm vọng tới… tức cảnh sinh tình, Trương Kế hạ bút hồn cất cánh thơ để lại một Phong Kiều Dạ Bạc lưu truyền hậu thế. Cũng nhờ có thơ Trương Kế mà Hàn San Tự trở nên nổi tiếng hấp dẫn khách năm châu bốn biển được các thi nhân viếng thăm đề vịnh. Xin dẫn một vài ví dụ với đôi câu thơ hay:  Ô đề nguyệt lạc kiều biên tự (Quạ kêu trăng xế chùa bên cầu) Tần Thục – đời Tống. Lãnh tận Hàn San cổ tự phong (Lạnh đến cả cây phong bên chùa cổ Hàn San) Khang Hữu Vi – đời Thanh Còn một điều cực kỳ thú vị nữa là: theo Giáo sư Kiều Thu Hoạch thì thơ Trương Kế không chỉ ảnh hưởng đến thơ Việt (kể cả nhạc Văn Cao) mà còn ảnh hưởng đến cả đời sống văn hoá – ngôn ngữ của người Việt. Số là cái bát canh mà ở Bắc Việt hiện nay vẫn gọi là “bát ô tô”, Nam Việt gọi là “tô” thì Đại Nam Quốc Âm tự vị (Sai Gon – 1895) của Paulus Của giải thích là “bát thành Cô Tô làm ra, bát lớn mà khéo”. Tuy nhiên ý kiến của Paulus Của chỉ đúng một nửa. Theo ý kiến của giới ngôn ngữ học thì đó chỉ là cái bát có vẽ cảnh Cô Tô theo ý thơ “Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự”. Người Bắc Việt nhân đó gọi là bát Cô Tô, rồi gọi chệch là “bát ô tô”, còn dân Nam Việt gọi tắt là “bát tô”, rồi “tô”. Xem thế, đủ thấy sức lan toả về mặt văn hóa của một kiệt tác văn học quả là sâu rộng lắm thay! Tô Châu
 
                                                                                   Nguyễn Khôi
                                                                                  Hà Nội 6-2006
 
Bài 5:
DỊCH SAI
 
Xưa nay không thiếu gì chuyện “dịch sai”.
Có hai lý do:
. Một là do người dịch không hiểu ý tác giả hoặc là vốn chữ nghĩa (cả hai phía ngôn ngữ) không đủ…
. Hai là người dịch kiến thức uyên bác nhưng cố tình dịch sai với một ý đồ riêng (xuyên tạc để phục vụ chủ ý của mình); cũng không ít trường hợp “dịch sai” mà lại thành “hay” rất được phổ biến, để người đời tưởng đó là thật, cứ dùng, không chấp nhận bản “dịch đúng nguyên tác” – xin ví dụ :

1.  Trong bài MINH LƯƠNG (vua sáng tôi hiền) của vua Lê Thánh Tông,câu 3 + 4 là:
 
Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo
Vũ Mục hung trung liệt giáp binh
 
Dịch đúng là:
 
Văn chương Nguyễn Trãi lòng soi sáng
Binh giáp Lê Khôi bụng chứa đầy
 
Dịch sai là:
 
Ức Trai lòng sáng tựa sao khuê…
 
Ở đây Lê Thánh Tông chỉ khen ngợi (Nguyễn Trãi) về mặt tài năng, chứ không nói về nhân cách. “Khuê tảo” là một từ kép đối với “binh giáp”. “Khuê” là ngôi sao chủ về văn chương, “tảo” là một loại rong rêu có mầu sắc đẹp đẽ, do đó  “khuê tảo” là văn chương đẹp đẽ; nếu chỉ dịch là “sao khuê” tức là bỏ từ “tảo” một cấu thành của từ kép “khuê tảo” là làm lạc mất nghĩa của từ kép này. Lý do: Vua cháu (Lê Thánh Tông) khi minh oan cho Nguyễn Trãi (sau vụ án Lệ Chi Viên) cũng chỉ phong tặng cho là tước Trụ Quốc Tán Trù Bá (kém cái tước Quan Phục Hầu mà vua ông (Lê Thái Tổ) đã ban, là vì “Trẫm phải có trách nhiệm giữ gìn uy tín của triều trước (ông cha)”… Với cách dịch ví sánh Nguyễn Trãi với sao khuê chỉ thấy xuất hiện đầu tiên trong sách Nguyễn Trãi (nhà xuất bản sử học 1963) và trong quyển “Mấy vấn đề sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi” (nhà xuất vản khoa học 1963). Nhờ lời dịch sai như trên lại đem đến cho đời một lời bình phẩm sáng giá, một hình ảnh rạng tỏa về con người Nguyễn Trãi. Có lẽ vì thế mà lời dịch, lời thơ dễ được thiên hạ chấp nhận? (lời dịch sai đã đi vào tâm thức của nhân dân).
 
2. Về bài “Tân Xuất Ngục Học Đăng Sơn” (mới ra tù tập leo núi):
 
Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân
Giang tâm như kính tịnh vô trần
Bồi hồi độc bộ Tây phong lĩnh
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.
 
Nam Trân dịch:
 
Núi ấp ôm mây, mây ấp núi
Lòng sông gương sáng bụi không mờ
Bồi hồi dạo bước Tây phong lĩnh
Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa.
 
Với bút danh T.Lan (Hồ Chí Minh) tác giả đã dịch đúng là:
 
Mây ôm núi, núi ôm mây
Lòng sông sạch chẳng mảy may bụi hồng
Bùi ngùi dạo đỉnh Tây phong
Trông về cố quốc chạnh lòng nhớ ai.
 
“Ức cố nhân” = nhớ ai, đây là người yêu của Anh Ba (Nguyễn Tất Thành).
 
3. Chữ Hán dịch bằng 2 chữ Việt chứa đủ cả Ý, Tình, Sự – Hồ Chí Minh quả là một thi sỹ tài hoa,sử dụng cả hai thứ ngôn ngữ Việt – Hoa vào loại bậc thầy. Giỏi như Nam Trân(1907-1967) 12 tuổi đã thông Hán văn trường Ốc,rồi đỗ Tú tài,làm tới Tá Lý Bộ Lại(trước 1945) sau này làm viện phó viện văn học,tác giả nổi tiếng với tập thơ “Huế đẹp và thơ”… Thế mà so về Thơ(Thi tài) xem ra còn thua Hồ Chí Minh 1 bậc – tuyệt vời thay!
 
                                                                   Nguyễn Khôi
                                                     Góc thành Nam Hà Nội 5-4-2006
 
Bài 6:
ĐẾN HẠNH HOA THÔN UỐNG RƯỢU
 
Ai yêu thơ Đường mà lại không thuộc bài THANH MINH của Tiểu Đỗ (Đỗ Mục, đỗ tiến sĩ năm 828):
 
Thanh minh thời tiết vũ phồn phồn
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn
Tá vấn tửu gia hà xứ thị
Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn
 
Dịch:
 
Thanh minh lất phất tiết mưa phùn
khiến khách đường xa thấm nỗi buồn
“Quán tửu đâu đây?… nhờ mách hộ”
Mục đồng xa chỉ: “Hạnh Hoa thôn!”
                       (Khương Hữu Dụng)
 
Thanh minh lất phất mưa phùn
khách đi đường muốn đứt hồn…xót xa
hỏi thăm”- Quán rượu đâu à?
trẻ chăn trâu chỉ: “Hạnh Hoa thôn kìa”!
 
Bài thơ bất hủ đã nghìn năm, ngày xuân các nhà thơ hay đàn đúm rủ nhau đi uống rượu quê, lúc đương líu ríu dìu nhau tìm nơi tửu quán thường ngâm vang lên bài thơ trên. Vậy, Hạnh Hoa thôn trong thơ Đỗ Mục là ở đâu? Để cho khách lãng du “tá vấn” tửu gia?
 
Ở bên Tầu cũng như bên ta, cái thôn Hạnh Hoa (Xóm Hoa Hạnh) đâu có ít, có khác nào rượu làng Vân, làng Mai, xóm cây Phượng, cây Gạo… Đến “Biệt điện Bảo Đại” cũng có ở bốn năm nơi kia. Người viết bài này, cũng đã có phen đến “Quán cây Phượng” ở Phan Thiết ẩm tửu để rồi viết trong lúc say:
 
Đêm Phan Thiết biển thì thầm to nhỏ
ta tựa kề bên Phượng uống lân khân
57 năm xưa Hàn Mặc Tử
lầu ông Hoàng kia ngồi với Mộng Cầm…
 
Bài thơ trôi nổi cùng bạn bè sang mãi New York, Cali… Mỗi khi sa đà vào thơ và quán rượu – kể cũng là cái thú của nghiệp thi ca.
 
Còn Hạnh Hoa thôn ở bên Tầu, theo các nhà khảo cứu Trung Hoa thì có đến 3 nơi:
 
. Một là, ở huyện Phần Dương, tỉnh Sơn Tây – nơi đấy có rượu ngon nổi tiếng.
. Hai là, ở phía tây huyện thành Quý Trì, tỉnh An Huy; năm 844 Đỗ Mục từng giữ chức Thích Sử tại đây, cũng có Hạnh Hoa thôn nổi tiếng về rượu.
. Ba là, ở phía đông nam huyện Phong, tỉnh Giang Tô – nơi Đỗ Mục từng qua lại nhiều lần. Nơi đây Tô Đông Pha (đời Tống) cũng đã từng có đến đây uống rượu và có thơ để lại.
 
Chao ôi, thơ và rượu mà lại là rượu nơi xóm quê dân giã, còn gì ấm lòng hơn khi “một chén rượu uống trong chiều lạnh cóng” cùng ai đó ngồi bên bếp lửa bập bùng giữa một trời mưa phùn với hoa Hạnh hoa Mai, tửu nhập thơ xuất là vậy!
 
                                                          Nguyễn Khôi
                          Góc thành Nam Hà Nội một chiều Đông, 5-12-2006
 

6 nhận xét:

Bâng Khuâng nói...

Bác Nguyễn Khôi viết:

“Trong bài MINH LƯƠNG (vua sáng tôi hiền) của vua Lê Thánh Tông, câu 3 + 4 là:

Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo
Vũ Mục hung trung liệt giáp binh

Dịch đúng là:

Văn chương Nguyễn Trãi lòng soi sáng
Binh giáp Lê Khôi bụng chứa đầy

Dịch sai là:

‘Ức Trai lòng sáng tựa sao khuê’…

Ở đây Lê Thánh Tông chỉ khen ngợi (Nguyễn Trãi) về mặt tài năng, chứ không nói về nhân cách. ‘Khuê tảo’ là một từ kép đối với ‘binh giáp’. ‘Khuê’ là ngôi sao chủ về văn chương, ‘tảo’ là một loại rong rêu có mầu sắc đẹp đẽ, do đó ‘khuê tảo’ là văn chương đẹp đẽ; nếu chỉ dịch là ‘sao khuê’ tức là bỏ từ ‘tảo’ một cấu thành của từ kép ‘khuê tảo’ là làm lạc mất nghĩa của từ kép này.
Lý do: Vua cháu (Lê Thánh Tông) khi minh oan cho Nguyễn Trãi (sau vụ án Lệ Chi Viên) cũng chỉ phong tặng cho là tước Trụ Quốc Tán Trù Bá (kém cái tước Quan Phục Hầu mà vua ông (Lê Thái Tổ) đã ban, là vì ‘Trẫm phải có trách nhiệm giữ gìn uy tín của triều trước (ông cha)’… Với cách dịch ví sánh Nguyễn Trãi với sao khuê chỉ thấy xuất hiện đầu tiên trong sách Nguyễn Trãi (nhà xuất bản sử học 1963) và trong quyển ‘Mấy vấn đề sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi’ (nhà xuất vản khoa học 1963). Nhờ lời dịch sai như trên lại đem đến cho đời một lời bình phẩm sáng giá, một hình ảnh rạng tỏa về con người Nguyễn Trãi. Có lẽ vì thế mà lời dịch, lời thơ dễ được thiên hạ chấp nhận? (lời dịch sai đã đi vào tâm thức của nhân dân).

NGUYỄN KHÔI

Bâng Khuâng nói...

Tra cứu sách vở tôi tìm được bài thơ của vua LÊ THÁNH TÔNG như sau:
Tựa đề QUÂN MINH THẦN LƯƠNG là lấy ra bốn chữ ngắn gọn từ lời tự của vua đề bài thơ.

QUÂN MINH THẦN LƯƠNG
Cao Đế anh hùng cái thế danh,
Văn Hoàng trí dũng phủ doanh thành.
Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo,
Vũ Mục hung trung liệt giáp binh.
Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển,
Nhị Thân phụ tử bội ân vinh.
Hiếu tôn Hồng Đức thừa phi tự,
Bát bách Cơ Chu lạc trị bình.
LÊ THÁNH TÔNG
*
DỊCH NGHĨA:
Đức Cao Đế là bậc anh hùng, danh trùm thiên hạ,
Đức Văn Hoàng trí dũng, giữ yên nghiệp lớn.
Lòng Ức Trai rạng toả văn chương,
Bụng Vũ Mục chứa đầy binh giáp.
Mười anh em họ Trịnh đều vẻ vang phú quý,
Hai cha con họ Thân nhiều ân sủng vinh hoa.
Cháu hiếu Hồng Đức kế thừa nghiệp lớn,
Vui hưởng trị bình như nhà Chu dài tám trăm năm.
*
Bản dịch của Nhóm Lê Quý Đôn
(Lê Thước, Vũ Đình Liên, Trịnh Đình Rư, Nguyễn Sĩ Lâm, Trần Lê Hữu)

Cao đế anh hùng dễ mấy ai,
Văn Hoàng trí dũng kế ngôi trời.
Văn chương Nguyễn Trãi lòng soi sáng,
Binh giáp Lê Khôi bụng chứa đầy.
Mười Trịnh vang lừng nền phú quý,
Hai Thân sáng rạng vẻ cân đai.
Cháu nay Hồng Đức nhờ ơn trước,
Cơ nghiệp Thành Chu vận nước dài.

Nguồn: Hoàng Việt thi tuyển (Tồn Am Bùi Huy Bích), NXB văn học, 2007
*
Lời tự:

“Ngự chế: Dư tĩnh toạ thâm cung hà tư cổ tích, quân minh thần lương, dữ đương kim cơ nghiệp chi thịnh, ngẫu thành nhất luật”

御製予靜坐深宮遐思古昔君明臣良與當今基業之盛偶成一律

(Ta lặng ngồi trong cung điện, nghĩ tới các bậc vua sáng tôi hiền thời xưa và cơ nghiệp thịnh vượng ngày nay, ngẫu tác bài thơ luật này).

Nguồn tham khảo:
1. Viện nghiên cứu Hán Nôm, Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông (tổng tập), NXB Văn học, 2003
2. Bùi Duy Tân, Theo dòng khảo luận văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2005

Bâng Khuâng nói...

Bác Hà Như cho rằng:

“Bác Khôi viết đoạn trên là đúng. Đúng là như vậy.
Nhưng xin Bác xem lại đoạn dưới:
Ở đây Lê Thánh Tông chỉ khen ngợi (Nguyễn Trãi) về mặt tài năng, chứ không nói về nhân cách !"khuê tảo"là 1 từ kép đối với "binh giáp" ."khuê" là ngôi sao chủ về văn chương,"tảo" là 1 loại rong rêu có màu sắc đẹp đẽ,nếu chỉ dịch là "sao khuê" tức là bỏ từ "tảo" một cấu thành của từ kép"khuê tảo" làm lạc nghĩa của từ kép này.
Và các sách khác mà Tiểu đệ nhặt nhạnh được:

奎藻: 指帝王詩文書畫
Khuê tảo: chỉ Đế Vương thi văn thư hoạ.
Nghĩa là: Khuê tảo chỉ Thi văn Thư hoạ của bậc Đế Vương.

http://www.zdic.net/cd/

Lê Thánh Tông đã là bậc Đế Vương, nên Khuê tảo nên hiểu là "Thơ văn của ta, của trẫm"
và câu:
Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo
Nôm na ra là:
Tấm lòng của Ức Trai đã soi sáng "Thơ văn của trẫm"
*
Thơ văn còn thể hiện Tư tưởng chứ.
Đấy là chưa kể đến, một người là "Hoàng thượng", người kia là "Tâm thượng".
Khi đọc cả 2 câu:

‘Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo
Vũ Mục hung trung liệt giáp binh’
mới thấy, không thể cảm nhận được cái hay tột cùng.

Đền thờ Nguyễn Trãi ở Nhị Khê, Bảng sắc phong cũng có câu này, toàn văn là:
Ngự đề

‘Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo’
Khâm phụng
*
Thế thì:

Ở đây Lê Thánh Tông không những chỉ khen ngợi (Nguyễn Trãi) về mặt tài năng, mà còn khen ngượi về nhân cách.
Mà cũng đúng là như vậy.
*
Còn ý dịch sai mà lại hay. Tiểu đệ đoán Khôi huynh cũng có óc hài hước.
Nếu có điều gì làm Khôi huynh không vừa lòng, xin ban cho chữ đại xá.

Hà Như

Vũ Nho Ninh Bình nói...

LÊ THÁNH TÔNG ĐÁNH GIÁ NGUYỄN TRÃI

Vũ Nho

Trang 6 của cuốn Văn thơ Nguyễn Trãi dùng trong nhà trường (Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội năm 1971) chúng ta gặp lời dịch câu thơ " Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo" kèm với lời bình: "Hai mươi lăm năm sau, Lê Thánh Tông, con Lê Thái Tông, hiểu rõ nỗi oan của Nguyễn Trãi và đã nói về ông:
Lòng dạ Ức Trai sáng vằng vặc như Sao Khuê (Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo).
Lời nói đó đã nêu được tấm lòng và nhân cách cao quý của Nguyễn Trãi"
Rất nhiều các thế hệ thầy giáo, học sinh đã sử dụng và tin theo tài liệu này. Gần đây, trong dịp tìm tư liệu cho chuyên đề về Nguyễn Trãi, chúng tôi thấy có đôi điều cần bàn lại để tránh sự hiểu nhầm.
1. Đúng là vua Lê Thánh Tông, người hiểu rõ nỗi oan của Nguyễn Trãi và đã thanh minh cho ông. Tuy nhiên, câu thơ "Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo " không phải là câu thơ viết riêng về Nguyễn Trãi nhằm mục đích giải oan. Đây là câu thơ nằm trong bài thơ có tựa đề dài đúng băng một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt: "Thánh Tông chế văn, dư tĩnh toạ thâm cung, hà tư cổ tích, quân minh thần lương, dự đương kim cơ nghiệp chi thịnh, ngẫu thành nhất luật" (Chế văn của Thánh Tông "ta ngồi trong chính điện nghĩ tới các bậc vua sáng tôi hiền đời xưa và cơ nghiệp thịnh trị ngày nay, ngẫu tác một bài thơ").
2. Như vậy tựa đề của bài thơ đã giải thích rõ nội dung của nó. Xin trích bốn câu thơ đầu1
Cao Đế anh hùng cái thế danh
Văn Hoàng trí cũng phủ doanh thành
Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo
Vũ Mục hung trung liệt giáp binh
(Đức Cao Đế anh hùng danh tiếng trùm thiên hạ
Đức Văn Hoàng trí dũng kế thừa cơ nghiệp
Trong lòng Ức Trai rạng vẻ sao Khuê
Đầy ngực Vũ Mục chứa chất giáp binh).
2. Xét câu thơ về Nguyễn Trãi trong mối liên quan với cả bài ta sẽ thấy vua Lê Thánh Tông không đánh giá tấm lòng và cũng không đánh giá nhân cách của Nguyễn Trãi. Mỗi câu thơ nói về tài đức của một vua sáng tôi hiền của triều Lê. Đức Cao Đế thì anh hùng. Đức Văn Hoàng thì trí dũng. Ức Trai thì giỏi văn chương. Vũ Mục thì giỏi võ nghệ. Cố nhiên đây là cách nói bằng thơ bằng hình tượng, cho nên tài văn chương của Nguyễn Trãi được diễn tả bằng sự toả sáng của sao Khuê- ngôi sao chủ về văn chương- ở trong lòng, cũng như tài võ nghệ của Vũ Mục - giáp binh đầy ở ngực.
3. Trong nguyên chú dưới bài thơ này về từng nhân vật được nhắc tên, phần chú về Nguyễn Trãi như sau: "Thừa chỉ quang phục hầu Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, đậu khoa bảng từ đời Hồ. Khi Thánh tổ mới dựng nghiệp bèn theo về ở Lỗi Giang, trong thì bày mưu nơi màn trướng, ngoài thì phủ dụ các thành trì, văn chương làm vẻ vang cho nước, rất được tin dùng". Phần chú này cho thấy cũng không có sự đánh giá về nhân cách hay tấm lòng, mà chỉ nói về công lao và tài văn chương của Nguyễn Trãi.
4. Căn cứ vào nguyên văn chữ Hán thì "Ức Trai tâm thượng" và "Vũ Mục hung trung" chỉ có thể dịch thành "trên tim Ức Trai" hoặc "trong tim Ức Trai ", "trong lòng Ức Trai " và "trong ngực Vũ Mục". Trong quan hệ ngữ pháp, "tâm thượng" và "hung trung" chỉ vị trí, do đó "tâm" không thể trở thành chủ thể đóng vai trò chủ ngữ trong câu. Vì vậy mà lời dịch "Lòng dạ Ức Trai sáng vằng vặc như sao Khuê" là không sát với nguyên văn2
5. Với những cứ liệu trên, thiết tưởng chúng ta không thể hiểu câu thơ " Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo" là câu thơ đánh giá tấm lòng hay nhân cách của Nguyễn Trãi. Vua Lê Thánh Tông trong câu thơ này chỉ khen Nguyễn Trãi giỏi văn chương mà thôi. Còn bây giờ chúng ta viết rằng "Tấm lòng Nguyễn Trãi vằng vặc như sao Khuê", hoặc "Tâm hồn Nguyễn Trãi sáng trong lồng lộng như trăng rằm" hoặc "Lòng dạ ức Trai ngời ngời toả sáng".v.v…thì đó là cách đánh giá cả chúng ta chứ không phải là của nhà vua-thi sĩ Lê Thánh Tông.


Vũ Nho Ninh Bình nói...

Đây là bài viết tôi đã in báo Văn Nghệ của Hội Nhà Văn Việt Nam, sau đó in lại trong cuốn " Đi giữa miền thơ", tập 2, Nhà xuất bản Văn Hóa thông tin, năm 2001. Xin đưa lại đây để góp bàn! Cũng xin được nói thêm, khi viết bài này, chúng tôi có tham khảo ý kiến của học giả Mai Xuân Hải,người Chủ biên 2 cuốn "Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông" và "Thơ văn Lê Thánh Tông", Nxb KHXH, 1994, 1996. Thầy Mai Xuân Hải nói rằng bài viết của chúng tôi là CHÍNH XÁC!

Vũ Nho Ninh Bình nói...

1 Nguyên văn cả bài thơ và nguyên chú có thể đọc trong cuốn Thơ văn Lê Thánh Tông do Mai Xuân Hải chủ biên. NXB Khoa học xã hội 1986, tr. 216
2 Chính vì hiểu rõ nội dung của cả bài thơ cho nên các tác giả của tập Hoàng Việt thi văn tuyển đã dịch hai câu thơ nói về Nguyễn Trãi và Vũ Mục (tức Lê Khôi) như sau:
Văn chương Nguyễn Trãi lòng soi sáng
Binh giáp Lê Khôi bụng chứa đầy.