BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 6 tháng 8, 2021

PHỎNG VẤN NHÀ THƠ NGUYỄN KHÔI – Tiến sĩ Nguyễn Văn Hoa

Nguồn:
http://thang-phai.blogspot.com/2020/05/phong-van-nguyen-khoi-nguyen-van-hoa.html



Nhà thơ Nguyễn Khôi  
  

Từ phải qua:
Nguyễn Khôi (ngồi ngoài cùng)
Gặp vợ chồng Thế Phong lần đầu tiên ở Hà Nội, ngày 10/ 10/ 2006.
(Ảnh: Thế Phong chụp tại Khách sạn Phùng  Hưng/ Hà Nội.)

 
              PHỎNG VẤN NHÀ THƠ NGUYỄN KHÔI
                                                 Tiến sĩ Nguyễn Văn Hoa


27.12.2011: Nhà thơ Nguyễn Khôi bước sang Mùa Xuân thứ 75. Nhân dịp này Ts Nguyễn Văn Hoa (Kinh Bắc) đã công phu tổ chức một cuộc phỏng vấn nhà thơ Nguyễn Khôi xoay quanh câu chuyện Văn Chương. Chúng tôi trân trọng giới thiệu cùng Độc giả yêu thơ Kinh Bắc bài phỏng vấn này.
 
NGUYỄN VĂN HOA (NVH):
Thưa nhà thơ Nguyễn Khôi (NK), Anh sinh vào năm nào ?
NGUYỄN KHÔI (NK):
Nguyễn Khôi sinh vào năm 1938, cầm tinh CON CỌP.

NVH : Vậy là NK cầm tinh Hổ -  Ông Ba Mươi)
NK: Đúng vậy, NK tuổi Mậu Dần.

NVH: Anh sinh ở đâu?
NK : NK sinh ở Yên Bái .

NVH: Nơi sinh là Yên Bái ?
NK: Yên Bái chỉ là nơi sinh. Gốc gác của NK là Làng (nay là Phường) Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. NK từ nhỏ đến này vẫn giữ trọn vẹn Hồn quê Kinh Bắc: NK đẻ ở Yên Bái, nhưng ngay sau đó - gửi về quê ở Vú (U nuôi) tại làng, lên 4 "bắt" về ở nhà Ông bà ngoại (Đồ Nho) đi học, năm 1945, lên 7 tuổi đã học lớp 2 trường tiểu học Đình Bảng, 1946 tản cư lên Yên Thế, 1948 về Bắc phần Bắc Ninh (tự do) rồi lên Hiệp hòa học lớp 3, lớp nhì tiểu học.
Như vậy là từ lên 1 đến 12 tuổi NK sống ở quê hương Kinh Bắc (Bắc Ninh - Bắc Giang). Năm 1950 tản cư lên Thái Nguyên, học cấp 1, cấp 2 / hệ 9 năm, nhưng vẫn sống trong cộng đồng người Bắc Ninh (tản cư ở theo cả họ cả làng thành 1 khu vực kiểu "tự trị")... 1955-1958 học cấp 3 Lương Ngọc Quyến-Thái Nguyên, nhưng trọ học vẫn mấy người Bắc Ninh với nhau... Do đó ăn nói (ngôn ngữ) từ bé đến lớn vẫn giữ được ngôn ngữ phong tục tập quán “Người Đình Bảng - Bắc Ninh.”

NVH: 21 năm công tác ở Tây Bắc, anh còn nhớ gì nhất ?
NK: Khi vác ba- lô đi Tây Bắc (15-4-1963) trong hành trang của NK là tập "Thái dương vu thổ nhưỡng" - "Ánh sáng và phù sa" của Chế Lan Viên (bằng tiếng Trung) và các cuốn Đường thi nhất bách thủ, Tống thi nhất bách thủ, thơ ca Trung Hoa từ cổ đại tới Minh - Thanh, Thơ và từ Mao Trạch Đông (1 bản tiếng Trung và 1 bản tiếng Việt )... Sau này ghiền thêm cuốn Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh in ở trong Thành hồi 1950. Lên Sơn La, NK là cán bộ "cắm bản" chỉ đạo HTX nông nghiệp phải học tiếng Thái để 3 cùng với dân bản, thế là có điều kiện đi vào Sống Chụ Son Sao... Thơ Mới (1930-1945) nhất là Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Hoàng Cầm cùng 3 tác phẩm cổ điển Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung Oán ngâm khúc... + thơ Trung Hoa + thơ Thái... đã cho NK cái vốn ( chữ nghĩa) để làm thơ và dịch thơ.

NHỚ CHUYỆN XƯA MẸ KỂ - Thơ Lê Mậu Minh


  


NHỚ CHUYỆN XƯA MẸ KỂ
 
Nhớ mái nhà tranh
Chiều hôm thở khói
Nghe mẹ kể chuyện
Chạy giặc ngày xưa:
Nhọc nhằn mẹ gánh
Một đầu là con
Đầu kia ruột gạo
Với bon mắm cà
 
Giặc về Ba Bến *
Ta đến Chợ Cạn *
Nại Cửu * giặc càn
Ta sang Phương Sơn *
Giặc vờn Bích La *
Ta qua  Chợ Cống *
Tuổi mới lên ba
Đời con thống khổ!!!
Đất nước binh đao
Đồng bào chết chóc!!!
Bao nhiêu nhà cửa
Bỗng chốc ra tro!!!
Đêm nghe cuốc kêu
Mà thương vận nước
 
Nay đời vào đông
Tóc đã trắng sương
Lem nhem mắt đỏ
Nhìn cảnh con thơ
Mới mười ngày tuổi
Lê lết đường trường
Vượt đèo băng suối
Dưới nắng thiêu người
Cùng mẹ về quê
Để tìm cái ăn!!!
Vượt qua dịch bệnh!!!
Ở đây Sài Gòn
Không tiếng cuốc kêu...
khắc khoải sầu đưa...
Chỉ thấy nguyệt mờ
Mà sao lòng dạ
Ngẩn ngơ trăm chiều!!!
.......................
 
 Thế Vân Lê Mậu Minh
 
* Những địa danh ở tỉnh Quảng Trị.

 

NỮ SĨ MINH ĐỨC HOÀI TRINH – Sài Gòn xưa


Nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh


Nữ thi sĩ MINH ĐỨC HOÀI TRINH tên thật là VÕ THỊ HOÀI TRINH, sinh ngày 15/10/1930 tại Huế, bà thường lấy các bút hiệu là Hoàng Trúc, Nguyễn Vinh, Bằng Cử, bà sống ở Pháp từ năm 1953 đến 1964, sau đó bà đến định cư tại quận Cam, Hoa Kỳ từ năm 1982 cho đến ngày qua đời.
 

CUỘC ĐỜI BUỒN CỦA ‘CẬU BÉ RỪNG XANH’ ĐƯỢC BẦY SÓI NUÔI DƯỠNG – Thu Hằng

Nguồn:
https://baotintuc.vn/ho-so/cuoc-doi-buon-cua-cau-be-rung-xanh-duoc-bay-soi-nuoi-duong-20210707163350822.htm


Một bức ảnh Dina Sanichar được chụp vào khoảng năm 1889 - 1894. Nguồn: Wikimedia Commons

Dina Sanichar được bầy sói nuôi lớn trong rừng rậm bang Uttar Pradesh của Ấn Độ cho đến khi những người thợ săn phát hiện cậu bé vào năm 1867. "Cậu bé người sói" trở thành nguồn cảm hứng cho nhân vật Mowgli trong tác phẩm nổi tiếng "The Jungle Book" (Câu chuyện Rừng xanh) của Rudyard Kipling. 
 

DỌC ĐƯỜNG GIÓ BỤI, ĐOẢN KHÚC 86- 95 (TRONG 100 ĐOẢN KHÚC) – Thơ Khaly Chàm


  
                                 Nhà thơ Khaly Chàm

 
trích đoản khúc: dọc đường gió bụi

86.
chắc gì cuồng trí mười mươi
ôm cây chết rũ chờ tươi tro tàn
co ro ủ ấm nồng nàn
hồn điên bứt máu cười khan một mình
 
87.
mù trời chạm mặt yêu tinh
âm hồn chuốc rượu ta nhìn đê mê
khói sương mặc khải câu thề
từ trong linh giác em về như mây
 
88.
chùn chân ngả xuống truông lầy
quán đời lợm giọng đã ngầy ngật chưa
nghiêng chai tràn rượu, dạ thưa
đẫm mùi nhân nghĩa cũng vừa mềm môi
 
89.
lột truồng nộ khí cái tôi
miệng nhai chữ đạo lên ngôi cuồng đồ
lưỡi cùn, ngọng nghịu nam mô
tru dài điên dại cơ hồ trối trăn
 
90.
em nghiêng đời xuống nhọc nhằn
níu buồn vui lại muộn mằn khát khao
hớ hênh tình của chiêm bao
câu thơ sương phụ nhập vào khói bay
 
91.
hình dung ảo giấc mơ ngày
ấu trùng ngoi ngóp trong nhầy nhụa sao
hoài nghi rờ rẫm lao xao
bóng ta khóc ngất cấu cào xước môi
 
92.
trườn qua môi lửa tinh khôi
ngôn tình rú lạnh trên đồi ngực hoang
đỉnh đêm mùa thụ phấn loang
ta man dại ngậm trăng vàng hỡi em!
 
93.
bao năm khép mắt say mèm
tẩm thân rượu ngọt tèm hem mặt mày
cô đơn nâng đỡ bàn tay
vớt từ khổ nhục vơi đầy niềm vui
 
94.
bước đi sao mãi thụt lùi
đành nương chướng khí nghiệm mùi tử sinh
định thần quán tưởng hư linh
trời xô lệch đất trào thinh âm buồn
 
95.
bã bời chưa hỡi lách luồn
nằm co máu ứ trong khuôn ngực đời
bình tâm nhặt nắng chiều rơi
mùa xuân đi biệt phía trời nhớ đau
 
                                    khaly chàm
 

Thứ Năm, 5 tháng 8, 2021

CHÙM TỨ TUYỆT THÁNG 8/2021 CỦA NGUYỄN KHÔI

 
  


CHÙM TỨ TUYỆT THÁNG 8
 
“Tháng 8 mùa thu xanh thắm
 ...Mây của ta trời thắm của ta”
                                (Thơ T.H)
 
* 1- Lại được nếm một mùa thu Covid
Trời trong xanh mà đường phố vắng tanh
Dòng người Phố trốn về quê ngút ngát
Không đạn bom kinh hơn cả Chiến tranh.
                            
* 2- Olympic... xem qua màn ảnh nhỏ
Vẫn đua tranh soán ngôi vị hàng đầu
Tàu - Mỹ - Nhật anh nào phen này “nhất” ?
Buồn cho Nga... thời oanh liệt còn đâu !
                             
*3- Ngài Biden đang lấy lại vị thế
Tập Cận Bình đang ở thế thượng phong
- Vẫn là chuyện Tiền Hàng gây sóng bề
Taliban đã có kẻ chống lưng...
                              
* 4- Trời trớ trêu : năm “dịch ‘ lại   “được mùa”
Nông sản ế thừa vì Chặn đường, cấm chợ
Con cá, con tôm... Sầu riêng, nhãn, dứa
Nông dân buồn hái quả gửi đem cho...
                                
* 5- Còn Niềm Tin: toàn dân dồn Chống dịch
Thủ tướng ra tay, Bộ trưởng ra quân
Mong “lò thiêu” chỉ lơ thơ khói nhạt
Có Vaccine hy vọng có mùa Xuân...
 
                            Hà Nội 2/8/2021
                           NGUYỄN KHÔI 

QUÊ TÔI BÊN GIÒNG SÔNG THẠCH HÃN – Hoàng Thắng

Tiếp theo bài “Có một thầy đồ Nuôi - Giữ lửa Việt trên đất Mỹ” giới thiệu về anh Hoàng Thắng - một cựu Nguyễn Hoàng tài năng của khóa 1961-1968, với một nghị lực đáng khâm phục anh đã thực hiện được ước mơ trở thành người dạy tiếng Anh và văn chương Anh Mỹ cho người Mỹ ngay trên đất Mỹ của mình. Bên cạnh việc giảng dạy tại các trường công lập Mỹ, anh còn hóa thân thành Thầy Đồ Ngọc Sương trong ngôi trường “Thầy Đồ Hoàng” để giúp cho nhiều học sinh Việt có đủ khả năng theo học tại các trường Trung học Mỹ.
Hôm nay, chúng tôi xin được giới thiệu một bài viết mới của anh Hoàng Thắng - một người suốt gần 40 năm đã nói -  viết - giảng dạy và giao tiếp bằng tiếng Anh như ngôn ngữ chính của mình.



 
QUÊ TÔI BÊN GIÒNG SÔNG THẠCH HÃN 
                                                        Hoàng Thắng
 
(Thân tặng Hùng Vĩnh Phước, người đã đem tiếng và ngữ vựng Quảng Trị vào thơ một cách dễ mến và dễ thương).
 
Tôi quê nội ở huyện Vĩnh Linh và quê ngoại ở huyện Triệu Phong. Tôi là người Quảng Trị đứt đuôi con nòng nọc. Xin quí độc giả cho phép tôi không nêu tên hai làng nội, ngoại kẻo lỡ người nào không đồng ý quan điểm của tôi lại trù ẻo tôi bằng cách lôi hai làng của nội ngoại của tôi ra hài tội, bà con nội ngoại của tôi sẽ không tha tôi đâu.  “Mi làm mi chịu, sao bắt tau chịu?”

Tôi viết bài này trong một buổi trà dư tửu hậu, rơi vào Lễ Nghỉ Đông (theo như bạn tôi, anh Lê Đình P., đã đặt cái tên mỹ miều [Winter Break] này cho ngày lễ Giáng Sinh.)  Hoan hô anh Lê Đình P. đã đưa ngữ vựng Việt Nam mới vào ngôn ngữ Quảng Trị (anh Lê Đình P., bạn thân tôi, là người Quảng Tri, cũng đứt đuôi con nòng nọc như tôi). Từ nay chữ Nghỉ Đông là bản quyền của anh Lê Đình P. Xin đừng ai giành giật.

Thứ Tư, 4 tháng 8, 2021

BÀI THƠ "KHÓC CHỒNG" CỦA ĐỒNG THỊ CHÚC – Đặng Xuân Xuyến



Bài thơ "Khóc Chồng" của nhà thơ Đồng Thị Chúc, viết từ những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, nhưng mãi tới ngày 29 tháng 7 năm 2021 bà mới đưa lên facebook giới thiệu với bạn bè:
 
KHÓC CHỒNG
 
Vừa mới hôm qua thức bên anh
Nhỏ to câu chuyện nặng nghĩa tình
Hôm nay anh bước vào Thiên cổ
Để lại một mình em đứng trông.
 
Em đứng nơi đây giữa biển trời
Mênh mông sóng nước, một thuyền trôi
Thuyền trôi theo sóng mà vô hướng
Em giữa lòng thuyền vụng tay bơi.
 
Em đã gọi hoài gọi mãi anh
Đáp lời là tiếng gió rít đanh
Tiếng em chìm đắm trong vô vọng
Chỉ còn tiếng sóng giữa biển xanh.
 
Em đã như chim gãy cánh rồi
Nằm im bất động mặc thuyền trôi
Mắt em đăm đắm vào ảo ảnh
Cầu chúc hồn anh mãi thảnh thơi.
 
(Những ngày bi quan nhất)
ĐỒNG THỊ CHÚC
 

EM DÉP LÊ BÌNH THUẬN VÀ EM ĐẸP NGHỆ AN - Thơ Châu Thạch


   


EM DÉP LÊ BÌNH THUẬN
 
Em mang đôi dép lê
Cho tiền người về quê
Tên họ không ai biết
Thôi gọi là Dép Lê
 
Nắng trưa hè chưa xế
Em đón cả đoàn xe
Đầu đội chiếc nón che
Tay cầm xấp bạc chẵn
 
Gật đầu chào lẳng lặng
Trao vội tay mỗi người
Năm trăm ngàn bạc tươi
Chẳng mong lời cảm tạ
 
Những con người xa lạ
Chưa kịp nhìn mặt em
Em đã bước qua bên
Trao cho người bên cạnh
 
Truy tìm tên cô thánh 
Biết tên em Huệ hoa
Sống chân chất trong nhà 
Ngoài đời lòng như biển
 
Đem trăm ngàn chữ thiện
Chưa viết hết thiện em
Vì sao sáng trong đêm
Giữa cuộc đời đang tối  
 
Tôi viết bài thơ vội
Tôn vinh một tâm hồn
Nguyện Trời cao mở sách
Khuyên tên em đỏ tròn!
 
                      Châu Thạch

NHÀ THƠ HỮU LOAN, LẦN GẶP MẶT - Cung Tích Biền

Nguồn:
https://nguoitinhhuvo.wordpress.com/2021/07/11/nha-tho-huu-loan-lan-gap-mat-cung-tich-bien/
 
Nhà thơ Hữu Loan


Sau tháng Tư 1975, tôi có dịp gặp gỡ các văn nghệ sĩ từ miền Bắc vào Nam. Những cuộc “gặp” lẫn “gỡ” này, cái đinh đóng vô đầu, vui ít buồn nhiều. Vui, là gặp được những người mình từ lâu mong đợi gặp. Lại khá bàng hoàng khi đụng phải những nhà văn nhà thơ từng là các tác gia được “vang bóng một thời”, nay trở thành những cán bộ tuyên truyền, “Nói mãi không thôi những điều dân miền Nam nghe muốn ói”.
 

Cung Tích Biền qua nét vẽ Nguyễn Xuân Hoàng.


Thật hạnh ngộ khi chúng tôi được gặp nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim, cùng một số vị trong vụ án Nhân văn – Giai phẩm, những năm từ 1957 về sau, trên đất Bắc.
 
Những người bị chế độ đương thời bắt bớ, tù đày là hầu hết những trí thức, văn nghệ sĩ có chủ trương, qua tác phẩm công khai của mình trên báo chí, mục đích chống lại đường lối cai trị độc đoán, đàn áp tư tưởng, thủ tiêu quyền tự do sáng tác.
 

NHỮNG TRÁI TIM NỞ HOA – Thơ Nhật Quang


 

 
NHỮNG TRÁI TIM NỞ HOA
 
 (Kính Tặng các Tu sỹ tình nguyện viên
 đi phục vụ các bệnh nhân nhiễm Cô-vít)
 
Dịch Cô- vít mỗi ngày một bùng lan
Sài Gòn đau, oằn mình trong giãn cách
Sài Gòn đang trong vòng gian nguy thử thách
Người người ơi! Sao ta nỡ ngồi yên?
 
Giữa gian nan… có muôn vàn trái tim
Đã rộng mở, nối vòng tay yêu mến
Nguyện dấn thân mang tình thương đến
Không ngại hiểm nguy giữa đại dịch bủa vây
 
Ôi! Cao quí những trái tim nồng say
Đầy nhiệt huyết của những người tu sỹ
Đang căng mình ngày đêm không ngần nghỉ
Bên bệnh nhân lúc hấp hối tử, sinh
 
Ôi! Đẹp thay biết bao những ân tình
Những bước chân nở hoa đường phục vụ
Thắp sáng niềm tin, như thầm nhắc nhủ:
Hãy vững lòng cậy trông Chúa xót thương
 
Cơn đại dịch vẫn diễn biến khôn lường
Những trái tim vẫn hy sinh trong thầm lặng
Nơi tuyến đầu, hanh hao từng đêm trắng
Vỗ về xoa dịu nỗi đau các bệnh nhân
 
Ôi! Thật đẹp thay những bước chân
Luôn vững vàng đường truyền rao chân lý
Tin yêu phục vụ, sáng ngời Chân, Thiện, Mỹ
Giúp muôn nguời thoát khỏi ách khổ đau
 
Sài Gòn ơi! Hãy vang lên khúc nguyện cầu
Nguyện xin Chúa đấng từ bi muôn thuở!
Đoái mắt xem lòng người bao trăn trở…
Mong bình yên, cơn đại dịch qua mau.
                                           
                                           Jos.  Nhật Quang
                                            (TGP - Sài Gòn)

ÔNG ĐOÀN HỒNG CHÂU PHÁT HIỆN BÀI THƠ “TRƯỜNG HUYỆN” CỦA NGUYỄN BÍNH CÓ ĐẾN 7 KHỔ THƠ 28 CÂU - Triệu Xuân


Nhà thơ Nguyễn Bính

 
Bài “Trường huyện” của Nguyễn Bính có 7 khổ thơ, 28 câu, chứ không chỉ có 3 khổ thơ, 12 câu như các sách in hiện hành!
Thơ Nguyễn Bính hiện hành, bài “Trường huyện” chỉ có 3 khổ thơ, 12 câu:
 
TRƯỜNG HUYỆN
 
Học trò trường huyện ngày năm ấy
Anh tuổi bằng em lớp tuổi thơ
Những buổi học về không có nón
Đội đầu chung một lá sen tơ.
 
Lá sen vương vấn hương sen ngát
Ấp ủ hai ta chút nhụy hờ
Lũ bướm tưởng hoa cài mái tóc
Theo về tận cửa mới tan mơ.
 
Em đi phố huyện tiêu điều lắm
Trường huyện giờ xây kiểu khác rồi
Mà đến hôm nay anh mới biết
Tình ta như chuyện bướm xưa thôi.
 
                                 Nguyễn Bính
 
Nguồn:
Nguyễn Bính Toàn tập. Nguyễn Bính Hồng Cầu sưu tầm, biên soạn. Fahasa đầu tư in ấn. NXB Hội Nhà văn, 08-2017.



THÀNH PHỐ BUỔI CHIỀU CUỐI THÁNG BẢY – Thơ Lê Phước Sinh


   


THÀNH PHỐ BUỔI CHIỀU
CUỐI THÁNG BẢY
 
Xe Cứu Thương hú
Con Thú bị thương
dạt vào vệ đường
lóng ca lóng cóng
Nước sôi lửa bỏng...
 
LÊ PHƯỚC SINH
Sài gòn tháng 7.

RU TÌNH – Thơ Tịnh Bình


  
               
Nhà thơ Tịnh Bình
                                               
 
RU TÌNH
 
Ngày xưa vẫn cứ ngày xưa
Ta về hoài niệm nắng mưa xanh ngời
Người xa... xa lắm người ơi...
Ru tình đôi khúc lả lơi như là...
 
Rối lòng tóc gió chiều qua
Ngày xanh e nỗi tình già mất thôi
Dung nhan ngày ấy đâu rồi
Phấn son hờ hững vành môi thuở nào
 
Đường chiều ong bướm lao xao
Mười thương chín nhớ ngọt ngào rước đưa
Tiễn mùa vạt nắng về chưa ?
Cõi tim khép cửa cho vừa lòng ai...
 
TỊNH BÌNH
  (Tây Ninh)

DỌC ĐƯỜNG GIÓ BỤI, ĐOẢN KHÚC 81- 85 (TRONG 100 ĐOẢN KHÚC) – Thơ Khaly Chàm


   
                   Nhà thơ Khaly Chàm


trích đoản khúc: dọc đường gió bụi
 
81.
đời con gái chớm bao ngày 
hát ru hoa bướm tròn đầy đặn chưa
tóc chiều vướng gió xanh xưa
hỏi rằng. thiếu phụ đã vừa nợ duyên
 
82.
đàn bà trăng nhập linh thiêng
chắt chiu nước mắt tưới triền mộng xanh
tay nâng bầu ngực dỗ dành
chiều nghiêng hắt bóng hóa thành ca dao
 
83.
dựng hình nhìn mặt xanh xao
nhân danh câm điếc vái chào thơ ca
chửi thề con chữ trổ hoa
cái không tưởng được đã là mây bay
 
84.
tin rằng vọc lửa bằng tay
vô vàn hạt bụi trắng ngày hồn thơm
bóng ta sao tóc dựng bờm
háng hoang dại lú chút rườm rà chơi
 
85.
bước chân hẫng hụt, kêu trời!
xòe tay chém gió đã đời mộng du
quê hương trắng giọt mưa mù
hớp không khí lạnh ngồi thu lu cười

                                      khaly chàm