BÂNG KHUÂNG
Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2020
THÁNH HIẾN, THÁNH LỄ MÙA XUÂN, THẮP NẮNG - Thơ Lê Văn Trung
THÁNH
HIẾN
Anh mãi luôn ảo tưởng
mình là kẻ làm thơ
Dâng hiến trọn trái tim
trong vòng tay vũ trụ
Bày biện lòng mình vào
trùng trùng thiên cổ
Chỉ những mong nhìn thấy
được lòng nhau
Chỉ những mong qua mù mịt
bể dâu
Xin dâng trọn tình yêu
như một lời tuyên hứa
Và giữ lấy khổ đau làm
con đường chuộc tội
Và thơ anh như một phúc
âm buồn
Và thơ anh gióng giả từng
hồi chuông
Anh gọi thiên thu
Anh tìm hiện kiếp
Anh tan giữa mênh mông
Anh chìm trong u tịch
Xin trái tim anh nằm
trong trái tim NGƯỜI
Xin trái tim anh đỏ thắm
môi em cười
Anh giữ lại khổ đau như một
niềm thống hối
Anh giữ lại vương miện
gai đội lên linh hồn chảy máu
Và nguyện xin rữa sạch bụi
ưu phiền
Rữa cho em những hương phấn
tàn rơi
Cho hóa ngọc trong hồn em
trinh bạch
Rữa trôi đi những hạt lệ
bầm trong mắt
Của một thời dang dở cuộc
trăm năm
Xin ướp thơ anh lên bóng
nguyệt nguyên rằm
Xin khấn câu thơ như kinh
chiều sám hối
Anh sẽ đặt trái tim mình
tội lỗi
Dưới bệ thờ khấn liệm cuộc
tình xanh.
Thứ Tư, 8 tháng 7, 2020
MÂY VƯƠNG LỐI CHIỀU, ĐỊNH MỆNH - Thơ Văn Thiên Tùng
Nhà thơ Văn Thiên Tùng
MÂY
VƯƠNG LỐI CHIỀU
Tập lưu bút tuổi thơ nào
cất dấu
Gói trùm bao ký ức quá
thân thương
Những buồn vui thoáng chốc
được tỏ tường
Từng kỷ niệm ngọt ngào
hoen lệ giấy
Những rung cảm tự hôm nào
thức dậy
Ý tơ vương ẩn chứa khúc
ân tình
Dòng suy tư từng trang tỏa
lung linh
Chợt cuồn cuộn dâng tràn
sông ký ức
Những khoảng riêng thưở nào đà đánh thức
Vốn hoài mang tự thuở chớm
vào đời
Tuổi vàng son ôm ấp của một
thời
Ngây ngô đấy nhưng ngất
dày mộng đẹp…
Lắm cuộc tình mấy ai nào
nỡ khép
Bao trang thư vốn chắp
cánh ấy nào
Những lời yêu - thương nhớ
quả ngọt ngào
Đành khép kín để ngậm sầu
- chất nhớ…
Câu chuyện tình chuổi
ngày thơ thế đó
Tuổi học trò nhiều ít vốn
sương vương
Tuổi vào đời giăng lối
trước cổng trường
Yêu với những dỗi - ghét
- hờn chất ngất!
Mối tình đầu rày xưa nồng
vị chất …
Muôn sắc hương lắm vị đắm
say cùng
Bao lời yêu bấy khắc giận
mông lung
Mong đối mặt để giải hờn
- hóa dỗi …
Vốn nhân thế bao cuộc
tình bỏ ngỏ
Ôm sầu thương mi ngấn-
nén châu trào
Chất trái ngang - ngang
trái luống nghẹn ngào
Rồi lặng bước tiếp khúc đời
trước mặt
Vậy là mối tình đầu đà
chôn chặt
Là vết thương hằn cứa nát
tim mình
Là nỗi đau lây lất vốn vô
hình
Đành đoạn khép hẹn kiếp
sau gặp lại
Khi cổng trường tiễn chân
rời tuổi ái
Cửa trường đời muôn hướng
vội bật ra
Trước muôn vàn bão tố với
phong ba
Sao biết được những điều
gì phía trước
Nhân gian vốn lắm người
thầm nuối tiếc
Tuổi thơ qua nhưng chẳng
mảnh tình trao
Cảm xúc yêu hư thực ấy thế
nào
Khi hạnh phúc mãi vời xa
tầm với
Có lắm điều đâu như mình
mong đợi
Mấy ai yêu lại thành lứa
đôi đâu
Chút mây vương như vết cứa
hằn sâu
Bỗng đâu đó thoáng vật vờ
xao động.
QuảngTrị,12. 6.
2017
Mai Vân Văn Thiên Tùng
QUÊN SAO ?, CẦU CÁ - Thơ Chu Vương Miện
QUÊN
SAO ?
Dẹp lầu xanh lầu hồng
Không có kỳ nữ Đạm Tiên,
Thúy Kiều
Thì vắng như chùa Bà Đanh
Lũ vương tôn công tử
Bọn Từ Hải và Thúc Kỳ Tâm
Biệt dạng
Dẹp vườn hoa bách thảo
Thì bướm ong chấm dứt dập
dìu
Dẹp Khâm Thiên, Quán Bà
Mau
Thì Tú Xương, Nguyễn Khuyến,
Cao Bá Quát
Chấm đứt nghề cầm bút làm
thơ
Dẹp borden militaire
Thì lính Tây lính ta “Khố
đỏ khố xanh”
Xuống tóc đi tu hú
dẹp quán nhạc kara ôke “mại
dâm trá hình thức”
thì khách đực rựa chấm dứt
sự nghiệp chơi bời ở nhà
cái một
ôi sự đời
đèn đường ngọn đỏ ngọn
xanh
có các em các ghệ ăn mặc
thời trang
cổ truyền áo yếm hở lưng
mớ ba mớ bảy váy lĩnh Bắc
Ninh
hoặc Tây Phương
váy “jupe mini” cũn cỡn hở
ngực hở rốn hở đùi hở chân
nom rất là nghệ thuật văn
học văn chương
đương hiện đại
nhạc nhẻo ầm ầm sầm sập
ngang mưa dông
các ghệ mũn mĩm thì múa cột
cởi áo cởi quần
còn trơ lại là nội y nội
thất
nói bình dân là “xu
chiêng xì líp”
khách hào hoa “bọn dê cụ
dê ông đực rựa”
vỗ tay rung đùi cười
khoái trá híp cả 2 con mắt
“có nghĩa là múa may đạt
yêu cầu”
Các ca sỡi toàn trẻ măng
đẹp hết cỡ
Quán quân á quân Bolero
Người mẫu thời trang thời
thượng
Bao nhiêu lương tiền tham
nhũng
Dốc hầu bao đổ ra cho hết
?
Để sáng ngày mơi lao công
lao động tiếp
Kiếm địa
Nói chung xã hội nào thì
cũng thế?
Anh đàn cứ đàn, em hát cứ
hát
Anh sống cứ sống và anh
chết cứ chết
Riêng anh già và đực rựa
miễn hát
Vì không có lưng eo,
không có vú và không mông đít
thì hát chỉ chó nghe ?
trong rạp bạc trắng lửa hồng
tình già tình choai choai
tình non
nghề thượng đẳng bán tiếng
tơ tiếng trúc
trong ánh sáng nửa trong
nửa đục
khi ngũ âm
khi lục âm đèn khi tỏ khi
mờ
ôi cuộc đời cứ vậy vậy mà
mơ ?
Thứ Ba, 7 tháng 7, 2020
NHỮNG BÍ ẨN VỀ NHÂN HUỆ VƯƠNG TRẦN KHÁNH DƯ - Tô Như
(Thethaovanhoa.vn)
- Trần Khánh Dư là một danh tướng thời nhà Trần, hiệu là Nhân Huệ Vương. Ông từng
lập nên những chiến công hiển hách, mà nổi bật là những chiến công trong cuộc
chiến chống quân Nguyên lần 2 và lần 3 khi giữ chức Phó đô tướng quân. Tuy
nhiên, chung quanh cuộc đời của danh tướng Trần Khánh Dư vẫn còn những bí ẩn…
Tô Như
Đền thờ Trần Khánh Dư tại Vân Đồn
NHỮNG
BÍ ẨN VỀ NHÂN HUỆ VƯƠNG TRẦN KHÁNH DƯ
Phó
tướng Vân Đồn
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Đinh Hợi, Trùng Hưng năm thứ ba (1287)... Khi ấy, thủy quân Nguyên
đánh vào Vân Đồn, Hưng Đạo vương giao hết công việc biên thùy cho Phó tướng Vân
Đồn là Nhân Huệ vương Khánh Dư”.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: “Khánh Dư làm Phó tướng ở Vân Đồn, Hưng Đạo
vương giao phó cho giữ hết công việc ngoài biên giới.”
Đọc sơ qua liền thấy ở Vân Đồn thì Trần Khánh Dư là
Phó tướng, vậy thì ai là chủ tướng? Tại sao không thấy chủ tướng xuất hiện
trong các trận đánh quan trọng năm Đinh Hợi này?
Phải chăng vì Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn giao phó
trách nhiệm cho Khánh Dư, như vậy Quốc Tuấn chính là Chủ tướng Vân Đồn.
Tuyệt đối không phải vậy. Phó tướng ở đây là viết tắt
của “Phó đô tướng quân” hoặc “Phó đô tướng”.
Lịch triều hiến chương loại chí viết về quan chế nhà
Trần như sau: “Về võ giai thì có các chức
Phiêu kỵ Thượng tướng quân (chỉ Hoàng tử mới được chức ấy), Cấm vệ Thượng tướng
quân, Kim ngô vệ Đại tướng quân, Võ vệ Đại tướng quân, Phủ quân Phó đô tướng
quân, Thân vệ tướng quân, Điện súy Đô áp nha, Quản quân Tiết độ sứ, Đô thống chế.
Các chức trên đều là quan coi việc binh...”.
VỜI QUÊ, TÌNH BUỒN CA DAO LỤC BÁT 1 - Thơ Nguyên Lạc
VỜI
QUÊ
“Sương
khói chạnh niềm riêng cố xứ
Dõi
mắt, xuân không, lệ đắng lòng!”
(NL)
Lam dương hướng ấy chiều
đến vội
Thấy những tàn phai mộng
cuối trời
Đồng vọng mùa sang lời rất
khẽ
Vời nhớ quê hương ngút
phương đoài
Sao nhớ chi câu thơ ly
khách
Chuyện ngàn xưa buồn tiếp
đời nay
Sầu ly hương đong đầy mắt
khách
Sao chẳng say ly rượu chiều
này ?
Nhớ lắm cố hương dòng
sông Hậu
Ròng lớn hoa trôi thắm
biếc màu
Thương lắm quê tôi vườn
trái ngọt
Sầu riêng môi mật mớm
tình nhau
Ra đi là biết rồi không
thể…
Mang theo hồn thơ cổ người
xưa
Mang theo chút tình quê để
nhớ
Chiều nay vời đó ngất một
màu !
Tha hương luân lạc đầu có
bạc
Vẫn mãi trong tôi cố quận
nào
Bạc đầu tình ấy làm sao bạc?
Cách chi phai nhạt vị ngọt
ngào ?
Vẫn mãi trong tôi vườn
trái ngọt
Trăm năm môi mật mớm tình
nhau
Lữ khách vời quê đoài
đoạn mắt
Tri kỷ người đâu? Nắng
quái sầu!
MỘT SỐ CÁCH ỨNG PHÓ VỚI TẬT XẤU CỦA CẤP DƯỚI - Vũ Thị Hương Mai
MỘT
SỐ CÁCH ỨNG PHÓ VỚI TẬT XẤU CỦA CẤP DƯỚI
Một tổ chức (doanh nghiệp) làm ăn có hiệu quả cần phải
có sự tâm đầu ý hợp từ trên xuống dưới. Nhân viên có tinh thần vững vàng, tư tưởng
tập trung mọi khả năng để làm việc. Bên cạnh đó, người lãnh đạo nên có một đường
lối khôn khéo điều hành, chỉ đạo có hiệu quả. Tuy nhiên, dù có khôn khéo đến mấy
cũng không tránh khỏi những phần tử cố ý chống đối. Sau đây, chúng tôi xin đưa
ra một số tình huống và cách đối phó để các bạn tham khảo.
TIỄN HẠ, TRĂNG MƯA - Thơ Tịnh Bình
TIỄN
HẠ
Tiễn mùa con nắng nói mê
Trâu nằm nhai gió bờ đê hạ
nồng
Tiếng gà trưa vắng mênh
mông
Tàn sen mà vẫn xanh lòng
trúc tre
Buồn chi day dứt khúc ve
Bốn mùa thắp mãi nắng hè
trong tim
Vườn trưa lá ngủ lặng im
Cành cao thưa thớt tiếng
chim gọi đàn
Bâng khuâng gió tiễn mùa
sang
Ngậm ngùi nhớ nắng thênh
thang thuở nào
Cánh diều lưu luyến
nghiêng chao
Vẫy tay từ giã nhé màu trời
xanh
Chạnh lòng thoáng hạ hao
hanh
Phượng thôi thắp lửa trên
cành hoa xưa
Cuối trời lơ đãng hạt mưa
Nghe trong sương khói về
chưa thu vàng...?
ĐỌC TẬP CÁO, PHÚ, HỊCH, VĂN TẾ, VĂN BIA “TÂM THÀNH LỄ BẠC” CỦA NHÀ THƠ NGUYỄN PHÚC VĨNH BA - Châu Thạch
Nhà bình thơ Châu Thạch
ĐỌC
TẬP CÁO, PHÚ, HỊCH, VĂN TẾ, VĂN BIA “TÂM THÀNH LỄ BẠC” CỦA NHÀ THƠ NGUYỄN PHÚC
VĨNH BA
Nhà thơ Nguyễn Phúc Vĩnh Ba, một cây bút thuộc bậc thượng thừa thành phố Huế, chuyên về
lối văn Biền Ngẫu, là lối văn có cấu trúc văn chương cổ xưa, trong đó lấy đối
làm nguyên tắc cơ bản, tạo cho lời văn sự nhịp nhàng cân đối.
Nhà văn Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
Thứ Hai, 6 tháng 7, 2020
LÀ CÁNH CỬA KHÔNG MỞ - Thơ Vĩnh Thuyên
Nhà thơ Vĩnh Thuyên
LÀ
CÁNH CỬA KHÔNG MỞ
Sau lưng là cánh cửa không mở
Sau cánh cửa là dòng sông uốn khúc bên người đàn bà lặng
lẽ
Lặng lẽ ba bốn mươi năm trời tựa con nước lớn ròng vất
vả mang theo
Nhiều lần em muốn hỏi
Sông ơi!
Vì sao?
Cánh đồng không còn xâm mặn khi nước lũ về
Lúa đã chín xoay quanh cuộc đời tất tả
Hết rồi bữa đói bữa no
Chỉ thời gian uốn cong thân phận và bao điều được-mất
Trước mặt là cánh cửa đã mở
Mấy mươi năm rồi không tìm làm sao gặp
Anh đã bỏ lại sau lưng một trời ký ức cùng em và dòng
sông mang tên...
Sau lưng cánh cửa vẫn chưa mở
Sóng ơi!
Giờ biết làm sao?
Vĩnh Thuyên
Tên
thật: Dương Văn Thạnh
ĐT
0913955275.
Email:
duongvinhthuyen@gmailm com
Địa
chỉ: Cty Tây Ninh COSINCO số 610 QL 22b Long Thành, Nam Hòa
Thành, Tây Ninh
NON NƯỚC ĐẠI NAM, NƯỚC ĐỔ ĐẦU VỊT, NGHÈO NGHÈO, MUỐN, THƠ “NỤC BÁT” - Thơ Chu Vương Miện
NON
NƯỚC ĐẠI NAM
tiểu tòng đại
nhược tòng cường
lý thê giã, thiên giã
(Khổng Tử Gia Ngữ) *
lý kẻ mạnh bao giờ cũng
thắng **
nhưng theo ta thì kẻ mạnh
cũng thua
sử biên niên truyền lại tới
giờ
lọc phần chính bỏ đi phần
ba xạo
khi dư giả ăn cơm toàn gạo
khi cùng đường nhếch miệng
cười trừ
dân tộc nào? mà chả nên
hư
khi hưng thịnh khi thì mạt
vận
từ Đông Châu Đại Đường Đại
Tống
cũng cứ thua dài dài mất
nước như không
từ Liêu Kim, Tiên Ty đến
Khiết Đan
Dày xéo rách bươm giang
san nhà Đại Hán
nước Việt ta trên ngàn
năm quốc nạn
một cái vèo đuổi tuốt bọn
xâm lược xâm lăng
vào thời nhà Lý
Lý Thường Kiệt xua quân
chiếm Châu Ung
làm mưa gió trên đất đai
Lưỡng Quảng
thời nhà Trần
3 lần đánh tan quân Thành
Cát Tư Hãn
cọc Bạch Đằng cắm sừng sững
còn đây ?
kể làm cái gì ?
chuyện đánh Tàu, đánh Nhậ,t
đánh Tây
bao bành trướng trên đất
này
trước hoặc sau thua hết
trọi
rồi tháo lui bất thần
không kịp nói
rời âm thầm lặng lẽ chuồn
đi ?
ôi bao thời mang tiếng
man di
mà sức mạnh như thần
đánh đâu thắng đó
vũ trụ cứ quay
tuần hoàn muôn thủa
đảo Trường Sa, Hoàng Sa,
thác Bản Dốc
cũng chỉ là chuyện nhỏ
chả có con đường nào
cách núi ngăn sông là khó
mà chẳng qua đất nước
chúng ta
đang sửa soạn trở mình
[*]
nhỏ phục lớn, yếu phục mạnh
cái
lí là vậy, cái thế là vậy; ý trời cũng vậy
[**]
E'dop
Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2020
HAI BÀI THƠ VỀ HOÀNG HẠC LÂU CỦA NGUYỄN THUẬT - Lê Thí
Mời
đọc hai bài thơ của sứ thần Nguyễn Thuật viết về lầu Hoàng Hạc, để hiểu thêm một
tài năng, một tính cách Quảng!
Hà
Đình Nguyễn Thuật.
Lầu
Hoàng Hạc qua thơ của Nguyễn Thuật không chỉ với cảnh hàng phong, làn sóng, bến
nước với tiếng gió, tiếng sáo… - những cảnh ước lệ vốn có của cổ thi ở hầu hết
những bài thơ viết về lầu Hoàng Hạc, mà còn cả “cảnh thuyền máy chạy bằng hơi
nước của người Tây phương đậu nơi cửa biển” (Doanh đắc kỳ quan viễn hải chu) đã
làm cho Đăng Hoàng Hạc lâu “không rơi vào khuôn sáo, không ngại thơ đề trên đầu”
(Tuy Lý Vương).
HAI
BÀI THƠ VỀ HOÀNG HẠC LÂU CỦA NGUYỄN THUẬT
Lê Thí
Những
sứ thần Việt Nam làm thơ về lầu Hoàng Hạc
Lầu Hoàng Hạc là “một
di chỉ văn hóa, nơi kết duyên văn tự của thi nhân mọi thời”. Đây là một
trong “Tứ đại danh lâu” của Trung Quốc,
được Tôn Quyền xây năm 223 dưới thời Tam quốc, nay thuộc thành phố Vũ Hán, tỉnh
Hồ Bắc, trên vực đá Xà Sơn bên bờ sông Dương Tử.
SƠ LƯỢC NGUỒN GỐC MỘT SỐ ĐỊA DANH MIỀN NAM - Hồ Đình Vũ
SƠ LƯỢC NGUỒN GỐC MỘT SỐ ĐỊA DANH MIỀN NAM
Hồ Đình Vũ
Bài viết này được hình thành theo các tài liệu từ một số sách cũ của các học giả miền Nam: Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh Nam Bộ của Bùi Đức Tịnh, với mục đích chia sẻ những hiểu biết của các tiền bối về tên gọi một số địa phương trên quê hương mình.
Xin mời các bạn cùng tham khảo và đóng góp ý kiến từ các nguồn tài liệu khác - để đề tài này được đầy đủ và phong phú hơn.
1.- Tên do địa hình, địa thế
Bắt đầu bằng một câu hát dân gian ở vùng Ba Tri, Tỉnh Bến Tre: “Gió đưa gió đẩy, / về rẫy ăn còng, / về bưng ăn cá, / về giồng ăn dưa…’’
- Giồng: Là chỗ đất cao hơn ruộng, trên đó nông dân cất nhà ở và trồng rau, đậu, khoai củ cùng một số loại cây ăn trái. Bởi vậy nên mới có bài hát:“trên đất giồng mình trồng khoai lang…’’
Một con giồng có thể bao gồm một hay nhiều xã. Ở Bến Tre, Giồng Trôm đã trở thành tên của một Quận (Huyện). Lại nhắc đến một câu hát khác:“Ai dzìa Giồng Dứa qua truông. Gió rung bông sậy, bỏ buồn cho em…’’ Giồng Dứa ở Mỹ Tho, khoảng từ chỗ qua khỏi ngã ba Trung Lương đến Cầu Long Định, ở bên phải Quốc Lộ 4 là Giồng Dứa. Sở dĩ có tên như thế vì vùng này ở hai bên bờ sông có nhiều cây dứa. (Dứa đây không phải là loại cây có trái mà người miền Nam gọi là thơm, khóm. Đây là loại cây có lá gai dáng như lá thơm nhưng to hơn và dày hơn, màu xanh mướt. Lá này vắt ra một thứ nước màu xanh, có mùi thơm dùng để làm bánh, đặc biệt là bánh da lợn). Vừa rồi có nhắc đến truông, hồi xưa về Giồng Dứa thì phải qua truông, vậy truông là gì ?
– Truông: Là đường xuyên ngang một khu rừng, lối đi có sẵn nhưng hai bên và phía trên đầu người đi đều có thân cây và cành lá bao phủ. Ở vùng Dĩ An có Truông Sim. Ở miền Trung, thời trước có Truông nhà Hồ.
“Thương em anh cũng muốn vô. Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang’’. Tại sao lại có câu ca dao này ? Ngày xưa Truông nhà Hồ thuộc vùng Vĩnh Linh, Tỉnh Quảng Trị, còn gọi là Hồ Xá Lâm. Nơi đó địa hình trắc trở, thường có đạo tặc ẩn núp để cướp bóc nên ít người dám qua lại.
Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2020
MÙA THI VIẾT CHO EM - Thơ La Thụy, nhạc Thanh Chương
Thơ:
La Thuỵ
Nhạc:
Thanh Chương.
Trình
bày: Hoàng Thuý.
MÙA
THI - VIẾT CHO EM
Nhành phượng thắm chào
em: mùa thi đến
Tiếng ve ran rộn rã gọi
hè về
Các em yêu, vườn hồng
đang chớm nụ
Ngoan chăm lên, hương dậy
ngát trăm bề
Em yêu ạ! Ngày xanh đang
dịu sáng
Sự biếng lười sẽ huỷ lá
nhành non
Dù vất vả, sách bài như
đá tảng
Cứ kiên trì dần nhẹ chuyển
mây bông
Gạo trắng đẹp chính nhờ
xay xát kỹ
Sắt thép kia mài riết
cũng thành kim
Này em hỡi! Chớ nản lòng
em nhé
Ước mơ hồng rồi tung cánh
như chim
Từng mái đầu nghiêng
nghiêng trên giấy trắng
Mắt xoe tròn ngời sáng tuổi
thơ ngây
Nét mực tím trải đều đang
múa lượn
Trán thiên thần nhíu khẽ
- Dáng thơ bay
Ơi em yêu, chồi xanh ươm
hy vọng
Thầy mãi lặng chèo đẩy nhịp
đò đưa
Dù buồn vui nhấp nhô từng
vỗ sóng
Vẫn dịu lòng chở khách cập
bờ mơ
La
Thuỵ
(1990)
TRÁCH BẬU - Thơ Trần Mai Ngân
TRÁCH
BẬU
Bậu đi mất hút dáng kiều
Ta còn ở lại với điều cũ
xưa
Hương nồng trên tóc buổi
trưa
Vai trần môi ấm chưa vừa
chữ duyên
Bậu xa xa khuất triền
miên
Con sông bến nước lặng
yên nhớ nhiều
Hôm nay trời cũng ngã chiều
Ta về nơi cũ quạnh hiu chốn
này...
Nhớ Bậu... ôi! nhớ những
ngày
Thâu đêm suốt sáng đã rày
cho nhau
Nhớ Bậu lòng cắt như dao
Vết thương mới quá làm
đau đớn lòng...
Bậu ơi! đã gọi là chồng
Đã kêu là vợ sao đành
lòng xa
Không là dối trá điêu
ngoa
Chỉ là duyên phận đổ thừa
cho vơi!
“Ví dầu tình bậu muốn
thôi
Bậu gieo tiếng dữ cho rồi
bậu ra!” **
Trần Mai Ngân
**
ca dao
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)