BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 10 tháng 1, 2025

NĂM MƯƠI NĂM THỐNG NHẤT BÀI THƠ ĐÊM GIAO THỪA – Trần Vấn Lệ



Năm Hăm Bốn qua rồi, năm Hăm Lăm đang tới!  Hồi nãy có chờ đợi, Giao Thừa qua..., thì thôi!
 
Phần tư Thế Kỷ, ôi:  chỉ là cơn cát bụi!  Nước Việt Nam chìm, nổi, năm mươi năm, biển dâu!
 
Hai Thế Kỷ rời nhau mà vẫn còn xích buộc... mà người đau không thuốc, mà trẻ thơ không trường...
 
Bao giờ cũng yêu thương, nói để cho có nói!  Những bà Mẹ vẫn hỏi:  "Sao con tôi chưa về?".
 
Những ông Cha ngồi kia... rượu và điếu thuốc lá!  Hai Thế Kỷ ngộ há... tròn đầy năm-mươi-năm...
 
Từ Tháng Bốn Bảy Lăm, biết bao là nước mắt, biết bao tờ Kinh Phật, biết bao lời Chúa Ơi!
 
Sông Cửu Long chảy xuôi, chín con rồng giãy giụa, nước nhiễm mặn tưới lúa, được hay mất, cũng đành...
 
Những mái tóc xanh xanh những chiều sương bỗng bạc...
 
*
Thơ tôi, ai phổ nhạc, phổ giùm đi thời gian...phổ giùm đi Việt Nam - năm mươi năm thống nhất!
 
Kỷ Nguyên Mới có thật từ năm này hay không?  Nhìn hình ông Tô Lâm thấy ông cười chúm chím...
 
Mong không là kỷ niệm, ngày đầu năm, bài thơ...
Mong không là giấc mơ nửa vời tan mây khói...
 
                                                                                     Trần Vấn Lệ

CỰC, CÙNG CỰC, THÁI CỰC, BẮC CỰC... - Chiết tự chữ Hán



CỰC chính nghĩa là cây gỗ nóc nhà. Cây gỗ ấy ở trên hết các xà, cột...ở trên hết thảy cái “xương nhà”. Do đó, CỰC là ngôi, chỗ cao tột bực, nay gọi các sự vật gì rất cao là cực là bởi nghĩa đó.
   
Ngày xưa ngôi vua gọi là HOÀNG CỰC 皇極, vua lên ngôi gọi là ĐĂNG CỰC 登極 đều là ý nói chỗ rất cao không ai hơn được nữa.   
Phần hai đầu quả đất gọi là CỰC. Phần về phía nam gọi là NAM CỰC 南極, phần về phía bắc gọi là BẮC CỰC 北極.
Trước khi trời đất chưa chia rành rẽ gọi là THÁI CỰC 太極 . Thái cực là cái nguyên lí đầu tiên của tạo hoá vũ trụ, nay ta còn hiểu là cái mức tột cùng.
 
                                                                       Theo Chiết tự chữ Hán 

THOÁNG HƯƠNG XƯA – Đinh Hoa Lư

       
            

Người ơi, còn nhớ mãi trưa nào thời nào vàng bướm bên ao
Người ơi, còn nghe mãi tiếng ru êm êm buồn trong ca dao...
                                                    (Hương Xưa – Cung Tiến)
 
***
 
 Có môt loài cây tôi chưa bao giờ thấy được tại xứ người đó là cây sầu đông. Hôm nay chợt thấy lại hình ảnh những lùm hoa này trên mạng Internet làm tôi nhớ về những cây sầu đông năm cũ.
 
Hình ảnh cây sầu đông chẳng lạ gì trong một thời bé bỏng cho đến lúc lớn lên độ tuổi thanh niên và bước đầu xa rời Quảng Trị. Ngày đó, tôi đã có những lúc gần gũi với loài cây này cho đến lúc cùng nhau giã biệt xóm xưa, thành cũ; tất cả đều ra đi cho đến bây giờ.
 

Tôi muốn viết hay giản dị hơn là nhắc lại đến sầu đông tức là lúc bầu trời thành phố Quảng Trị không còn u ám hay nặng chình chịch hơi nước, những ngày cuối đông. Tháng Giêng vội vả 'bỏ đi' rồi những cánh mai vàng thực sự rụng hết. Thời gian này là lúc những khóm lá xanh lục của sầu đông bắt đầu thi nhau che khuất những cành cây khẳng khiu của chúng.
 

NGHỆ THUẬT SỐNG SÓT – Nguyễn Ngọc Tư


Hình mang tính minh họa, từ Google
 
(Địa phủ phát hành cho những linh hồn lỡ lấy vé đầu thai làm người Kỳ Cục)

1. Nói chuyện ăn trước, bởi có thực mới giựt được tùm lum. Ở Kỳ Cục, không ăn thì chết đói, ăn thì bạn sẽ ăn hải sản ướp phân u rê, phở nhồi phộc môn, cá khô tưới thuốc sâu, gạo tẩm thuốc chống mọt, thịt heo thấm đượm chất tạo nạc, rau xanh tưới dầu nhớt siêu mướt, xưởng tương ớt làm ở chuồng gà, khô bò sản xuất trong nhà máy nhựa, rượu chỉ từ nước lã hòa với cục men nước Lọa. Chỉ còn cách sắm miếng đất, tự trồng mà ăn, nhưng nhiều khả năng sống không yên với hàng xóm, họ nghĩ bạn đang nuôi sâu bọ phá vườn ruộng họ. Nói chung, đằng nào thì bạn cũng quay lại địa phủ sớm, không nên mang hành lý chi nhiều.

BÁNH GIẦY, BÁNH DẦY HAY BÁNH DÀY - Theo KiếnThứcThúVị



Bánh giầy (thường viết sai thành: bánh dầy, bánh dày là một loại bánh truyền thống của người Việt Nam nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với tổ tiên và đất trời xứ sở. Bánh thường được làm bằng gạo nếp giã thật mịn, có thể có nhân đậu xanh và sợi dừa với vị ngọt hoặc mặn. Bánh thường được làm vào dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền và vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch (ngày Giỗ tổ Hùng Vương).
 

CHỈ MỘT CÂU MÀ CŨNG RẤT THƠ – Trần Vấn Lệ



Sáng nay tôi chưa bài thơ nào / tôi đang còn chăng trong chiêm bao?  Đèn mở.  Còn khuya, giờ đã sáng / sao hồn tôi hồn tôi bay nơi nao?
 
Có lẽ tôi buồn?  Không định nghĩa!  Tôi buồn, có lẽ nhớ Quê Hương?  Con đường xe ngựa đi vang sỏi, mỗi nhánh cỏ là một. nhánh sương...
 
Ai xỏa tóc kia?  Ôi mái tóc!  Vàng hoe con suối lá vàng Thu.  Vàng hoe một cặp nai ren rén / uống nước lung lay chòm núi cao...
 
Sáng nay, cửa sổ, tình yêu đến... Nghe gió vi vu tưởng tiếng giày... Tiếng đế giày đinh thời chiến địa / vang vang buồn ơi bao chân mây!
 
Tôi sẽ làm sao?  Thôi kệ nó!  Tuổi trời nhẹ lắm một làn hơi... Bao nhiêu bụi bặm còn trong mắt / nghe xốn tim gan đến cuối đời!
 
*
Lát nữa cà phê tôi tự làm... thương hoài thương mãi nhé Liên Khương!  Cà phê em hái trên sườn núi, em phơi khô và em gửi sang...
 
Màu của Quê Hương:  đôi mắt đỏ!  Màu của Non Sông... màu mờ mờ... Ơn em, tôi đã làm thơ được!  Chỉ một câu mà cũng rất Thơ!
 
                                                                                      Trần Vấn Lệ

ĐẤT TRỜI VI DIỆU – Thơ Lê Văn Trung


   


ĐẤT TRỜI VI DIỆU
 
Mỗi tàn tạ là từng lời chia biệt
Lời tạ ơn trời đất cõi vô cùng
Là ân phúc nở màu hoa bất tuyệt
Là con đường đi thẳng tới vô chung
 
Mỗi tàn tạ là hẹn lời tri ngộ
Là hẹn cùng MIỀN IM LẶNG mênh mông
Là thắp lại muôn vì sao rực nở
Là mở ra mầu nhiệm cõi hư không
 
Mỗi tàn tạ là mỗi lời nhắn gọi
Úa vàng kia là thắm biếc hoa vàng
Và sự sống ươm mầm từ hạt bụi
Từ nguyên sơ vi diệu buổi hồng hoang
 
                                       Lê Văn Trung
                                    Tháng 12 - 2024

Thứ Tư, 8 tháng 1, 2025

LỚP TÔI VỀ THĂM CĂN CỨ HẢI QUÂN CỬA VIỆT – Đinh Hoa Lư


Hình: Căn Cứ Hải quân Cửa Việt VNCH 1972 trong hình lục giác màu đỏ

Tỉnh Quảng Trị cho đến thời điểm 1972 muốn về Căn Cứ Hải Quân Cửa Việt ai cũng theo con đường tỉnh lộ Quảng Trị - Bồ Bản cặp theo sông Thạch Hãn để về. Thời gian này có một phương tiện đó là mấy chiếc xe lambretta 3 bánh chở khách làng quê từ Q.T về Bồ Bản (trong bản đồ trên đề là Bồ Bảng) nhưng người QT chỉ gọi là Bồ Bản. Từ Bồ Bản đi bộ không bao xa thì đến Cửa Việt.

GIÀ ĐẦU CÒN MÊ NHẠC SẾN - Vũ Thế Thành



Năm tháng trôi qua, ở cái tuổi xem xi-nê không còn hào hứng đứng dậy vỗ tay nữa, tôi xoay qua nghe nhạc lãng mạn. Thời sinh viên ai chẳng uống cà phê nghe nhạc, mà nghe nhạc gì mới được. Phải là nhạc cổ điển, nhạc tiền chiến, nhạc trữ tình, lời lẽ ẩn dụ, êm ái như thơ… Cái goût nhạc ngon lành này đã vô tình (?) vạch ra một ranh giới mù mờ giữa cái gọi là nhạc “hàn lâm”, và phía kia là nhạc sến. Một đàng là của giới có học, thưởng thức điệu nghệ. Đàng kia của giới bình dân, lời lẽ giản dị, phơi bày, âm điệu dễ nghe, dễ hát, thường là điệu bolero, rumba, habanera…
 

Thứ Ba, 7 tháng 1, 2025

“EM”, MỘT TÌNH THƠ HAY CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Giáp Kiều Hưng


Tác giả Giáp Kiều Hưng

 
EM
 
Ta gạ em cạn chén
Thế là em cạn ta
Nửa đời ta trễ hẹn
Em nồng nàn đốt ta.
 
Run rẩy, em ghì ta
Quấn vào ta hoang dại
Thẫn người, ta ngây dại
Uống em từng giọt say.
 
Trời đất như cuồng say
Ngả nghiêng theo nhịp phách
Nửa đời trai trinh bạch
Em nhuộm ta ngả màu.
 
Hà Nội, đêm 21.01.2015
Đặng Xuân Xuyến

*
 
“EM”, MỘT TÌNH THƠ HAY CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
                                                                         Giáp Kiều Hưng
 
Người ta ví von người phụ nữ như lửa, có thể thiêu đốt cả thành trì, lâu đài, thậm chí cả một vương triều... quả thật không sai. Ở EM, ngọn lửa ấy đã thiêu đốt một thành trì TA “trinh bạch” sừng sững được “nửa đời” người rồi.

THƯƠNG VỀ MIỀN TRUNG – Đinh Hoa Lư



Đã bao lâu rồi không về Miền Trung thăm người em
Nắng mưa đêm ngày cách trở, giờ xa xôi đôi đường
Người ơi Có về miền quê hương thùy dương
Nước chảy còn vương bao niềm thương,
cho nhắn đôi lời...
                                                        (Nhạc Minh Kỳ)
 
Mưa quê hương, đó là lúc ta đưa tay hứng những giọt nước trong ngần, mát lạnh; chợt một niềm thương, nỗi nhớ len lén vào lòng. Kỷ niệm về một thuở tuổi thơ, những chiếc thuyền giấy nổi bập bềnh theo trọt nước trước hiên. Ngày đó xa rồi, dưới mái tranh quê hay miền trung chứa chan hoài niệm.  Nhưng mỗi khi quê hương đang chống chọi trong dòng nước lũ cố tìm sự sống thì bao giọt mưa kia lại hiện thân cho nỗi lo sợ hãi hùng. Mưa quê hương mỗi lúc đông về kèm theo nước lũ đó là lúc trời đất biến thành khổ ải, tang thương phủ chụp lên lớp người dân nghèo lam lũ. Bao dòng nước mắt đau thương miền trung sao vẫn tuôn rơi mãi với số phận định phần.
 

GIÓ MÙA ĐÔNG TÊ ĐIẾNG BÀI THƠ – Thơ Trần Vấn Lệ


   


Thư gửi bằng email
không dán tem
gửi đi hoài... mà quên?
nên không thấy hồi âm gửi lại!
 
Ờ thì mình quên
cho lòng mình thoải mái!
Ngó ra trời trống trải,
bến bờ đâu cho email ghé về?
 
Sau một đêm ngủ mê
uống thuốc ngủ gấp đôi cho mình ngủ thiếp,
sáng mở máy ra... không kịp
đọc email reply như đọc sớ dâng Vua!
 
Đường xe lửa trăm năm hoen rỉ
chẳng sao mà... vì ta có tàu bay,
ta có tàu thủy đi đó đi đây...
thì xe lửa cũng là tàu để nó ở trong âu thuyền cũng phải!
 
Người Bắc người Nam như con trai con gái
chưa có tình thì hai mặt ngó lơ,
nên những con tem thư
càng ngày càng lên giá!
 
Một đồng đô la bây giờ không mua được gì nữa cả!
cứ một đồng thì thuế mười phần trăm
vò tờ giấy bạc bỏ vô túi quần
nó không chịu yên mà lăn ra bãi rác...
 
*
Gửi thư dán tem thì thư đi lạc,
gửi email đì thì... lác đác mây bay.
Mây bay về chân mây.
Anh nhớ chân mày của em, nhớ quá...
 
Cái gì đã quen mà không có một ngày hóa lạ?
Có con sông nào chỉ một đầu sông?
"Quân Tương Giang đầu, thiếp Tương Giang vỹ,
cộng ẩm Tương Giang thủy, tương cách bất tương kiến!"
 
Mười tám chữ thơ, buồn tay ném liệng,
Gió mùa Đông tê điếng thời gian...
 
                                                                 Trần Vấn Lệ

LẶT LÁ – Thơ Lê Phước Sinh


   

 
LẶT LÁ
 
Lặt Lá lên nụ non,
nằm trên thân già cỗi.
Mong cho chồi nhiều nhựa
sinh khí đón xuân thời.
 
Mù sương ve vãn gió,
chọn về sáng hồng tươi...
 
             Lê Phước Sinh

NỖI LÒNG, NHÂN THẾ, MÙA HOA CÚC, BIỂN CẢ, HỮU HỮU LẠI VÔ VÔ, THỆ THỦY, HOA PHÙ SAO, HẬU TIỀN, TRĂM NĂM - Thơ Chu Vương Miện


   


NỖI LÒNG
 
á nguyên Cao bá Quát
làm thơ, kẻ đọc là vua Tự Đức?
con chim thất tình lạc bầy?
câm mồm không muốn hót?
câu thơ thi xã con thuyền Nghệ An
hình như là chuyện thật?
giặc châu chấu ở Mỹ Lương
chuyện tỉnh Hà giang với loài chim
5 trâu 6 cọc - bắt cô trói cột
nằm trên gác xép
chuyên trị một cặp nàng tiên nâu
dịch văn liêu trai chí dị?
không ai đọc? buồn quá rồi tịch?
chu tầm chu mã tầm mã ?
kinh tế loại một
nước lớn cũng có hồi khánh kiệt
kinh tế loại gà mờ gà chết
nước nhỏ tứ thời bốc cứt?
cơm chả ai muốn ăn?
phở chỉ còn nửa giá rẻ mạt
chị em ta? phô tài sắc?
không kiếm nổi một xu?
đành ngồi ôm mặt khóc?
đá mòn
 
hồng hoang nước chẩy đá mòn
tình mình lỗ chỗ chả còn bao nhiêu?
nâng niu còn khoảnh chợ chiều?
chòi tranh lác đác mái xiêu dật dờ?
xóm nhà mấy lá phất phơ
hang cau lả ngọn? hết chờ hết mong?
sá gì? nước chẩy lá môn
tình mình rồi cũng hết trơn em à?
 

Thứ Hai, 6 tháng 1, 2025

NHÀN THOẠI: “PHỐ VÀ NHÀ” HAY “PHỐ VÀ ĐƯỜNG” - Tử Yếng Lương Hoài Trọng Tính

 

Gần đây, thấy nhiều người hỏi về chuyện “Phố A B C – Phố Vải, Phố Ẩm Thực”… Kỳ thiệt, không phải bá gia họ thấy kì đâu! Ngay tại tôi vẫn thấy rất là kì khôi, bởi lẽ:
 
 1. Xét về phương diện kiến trúc
 
Trong các hình thái kiến trúc nhà ở phong cách Miền Nam, chia làm hai dạng thức chánh là Nhà ở quê và Nhà ở Thị thiềng.
Theo đó, tên gọi cũng phân biệt như sau:
- Các công trình dân dụng ở Quê, hay thường kêu là Nhà (thông dụng là nhà vườn)
- Các công trình dân dụng ở Chợ, Thị Thiềng, hay kêu là Phố. Phố nầy tức là Phố xá, chỉ về những công trình thiên về buôn bán, ở trong khu vực châu thành thị tứ.
Chữ Phố 舖 trong văn hóa miền Nam, chỉ về một căn nhà ở tại thị thiềng, nên sau nầy mới sanh ra chữ Nhà Phố (Phố Xá) vậy!
Chữ Phố  nầy không bao hàm ý nghĩa như một Cái Lộ hay Cái Đường, di chuyển nào hết. Ở miền Nam, còn vài địa danh gắn với chữ Phố như Cù Lao Phố (Chữ Nho là Đại Phố Châu 大舖 , kêu Nôm là Cù Lao Phố 岣嶗舖) ở Biên Hòa, Đồng Nai, ý chỉ về Cù Lao có nhiều Phố Xá buôn bán sung túc, Khu phố ở phía Đông nên cũng kêu là Đông Phố (xem thêm ĐNQATV-Huỳnh Tịnh Của). Người đứng Chủ Phố kêu là Bổn Phố vậy! Rồi Thành Phố, trong Thành (thiềng) có Phố buôn bán!
Đơn cử, có thể xét định nghĩa trong Đại Nam Quấc âm tự vị của Đốc phủ Của, trương 200, mục chữ Phố, như sau “Nhà buôn bán thường cất dọc chợ, nhà bán hàng xén. Phố xá, Phố Phường, …”.
Cách xài nầy vẫn còn thịnh hành trong đời sống và Phố = Nhà mà thôi!

Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

CÁI TÔ HAY CÁI TỘ - Lý Hồng Bảo



Thấy qua nay trên Fb đang chia sẻ um sùm chuyện cái tô, cái tộ. Thiệt ra tất cả đàng trong đều gọi là cái tô. Còn tộ là do phát âm thôi chớ không có chuyên to hay nhỏ mà kêu tô hay tộ. Còn cái tô bự thì kêu tô/tộ tượng, cái gì to bự người ta hay gán chữ tượng (voi) vô.
 
Nhưng cái mà giới trẻ bây giờ không biết chánh là cái tô trong hình. Nó có tên là tô chiết yêu, phần trên to, phần dưới túm lại. Theo nhiều người giải thích thì ban đầu tên là tô chít eo, vì nó bóp nhỏ lại từ phần lưng của tô, lâu ngày đọc trại đi thành tô chiết yêu.
Tô chiết yêu ngày xưa nhà nào cũng có không kể sang, hèn. Nhưng được dùng nhiều nhứt là thời bao cấp, vì nó đánh lừa thị giác, trên to nhìn tưởng nhiều, nhưng ở dưới đồ ăn rất ít. Đặc biệt là các hàng gánh bán rong, không có ghế mà ngồi xổm bưng tô ăn, phần dưới tô nhỏ nên đặt vừa trong lòng bàn tay.
 
Miền bắc không có tô, chén ăn cơm họ gọi là bát, còn cái tô, tộ thì kêu là bát ô tô. Chén của họ là cái li uống trà, uống rượu của đàng trong, còn cái bình uống nước, uống trà họ kêu là ấm, đàng trong cái đồ để nấu nước sôi mới gọi là ấm.
                                                                                     Lý Hồng Bảo

CA SĨ LÊ UYÊN: “LÊ UYÊN VÀ PHƯƠNG CHƯA BAO GIỜ CHIA TAY” – Tạp chí Âm Nhạc



Cho dù là bao nhiêu năm, nhạc Việt vẫn không thể quên được ba cặp ca-nhạc-sĩ là Trịnh Công Sơn - Khánh Ly, Từ Công Phụng - Từ Dung và Lê Uyên - Phương. Mỗi cặp đôi chất chứa trong tâm hồn mình những giai điệu và nỗi niềm khác...

Mối dây liên kết của họ, gọi là tình yêu thì vẫn chưa đủ, mà như một định mệnh. Như Lê Uyên Phương, kể từ khi ông gặp cô tiểu thư Lâm Phúc Anh tại Đà Lạt, cuộc đời cả hai người đã xoay chuyển theo một chiều hướng không ai đoán định được. Ngày ấy, vì yêu âm nhạc của ông, cô tiểu thư ấy trốn nhà đi gặp ông, bất chấp ba mẹ cấm cản.
Sau này, ngay cả khi đã trở thành một cặp tình ca, hai người vẫn muốn mình là của nhau bằng mọi hình thức, và đó là lý do ông “cắt” nghệ danh Lê Uyên Phương của mình thành đôi: ông là Phương, còn Lâm Phúc Anh là Lê Uyên.

Cái tên Lê Uyên - Phương từ đó đi vào âm nhạc Việt Nam với giai điệu tình yêu mãnh liệt của ông và tiếng hát trầm khàn không ai thay thế được của bà.


Lê Uyên Phương mang trong người một căn bệnh, được phát hiện năm ông 27 tuổi, mà nhiều người vẫn tin rằng ông có thể ra đi sớm, chỉ có bà là không tin. Nhiều người nói, chính Lê Uyên đã khiến Phương có nhiều sáng tác để đời về tình yêu như thế, và chính tình yêu của Phương đã mang đến cho giọng hát Lê Uyên sự đặc biệt thế. Rời Việt Nam năm 1979, Lê Uyên nói, cuộc sống của bà tuy sau đó thay đổi hoàn toàn nhưng vẫn tràn đầy âm nhạc và tình yêu, như lý do hai người đến với nhau.

ĐÓA HOA MÀU TÍM TƯỞNG NÀNG BÓNG MÂY – Trần Vấn Lệ



Giờ này chắc đã chưa trưa, bởi sương nhiều quá, ngày chưa rạng ngày...
Giờ này, giờ của chim bay, biết đâu biển Bắc hay Đoài, chẳng sao...
Nhớ em muốn được cúi chào màu xanh của núi cũng màu của sông.
Biết đau lắm chớ tấm lòng của người tàn cuộc đời không còn gì...
Không nhìn nữa, không chớp mi.  Thời gian cứ tới và đi, không về...

*
Chẳng hiểu sao gọi tóc thề, minh sơn thệ hải... bốn bề vậy thôi!
Con chim thì gọi chim trời, con thú với lại con người... thế gian!
Lát rồi sương chắc sẽ tan, chiếc xe bus học trò vàng chạy qua...
Biết đâu trưa có trăng tà...nhìn trong cái tách thấy xa xa buồn...
Nghĩ thầm đó cũng là sương! Ngôi Nhà Thờ sẽ rung chuông...Rồi chiều!
Rồi nhìn đâu cũng hoang liêu... chữ Thương Mến, chữ Tình Yêu... một hàng!
Sử hồng có lúc sang trang, đóa hoa màu tím tưởng nàng bóng mây...
 
                                                                                      Trần Vấn Lệ

NHỮNG CHIỀU ĐÔNG, CẢM THỨC XUÂN – Thơ Tịnh Bình


   

 
NHỮNG CHIỀU ĐÔNG...
 
Chút se lạnh gọi đông về nhóm lửa
Ta miên man trong nỗi nhớ quê nhà
Họa ký ức bằng trang thơ giấy trắng
Những chiều đông sương đọng cánh đồng xa
 
Con cúm núm kêu chi lời khắc khoải
Chân đất đầu trần nào đã hay đông
Gió vi vút chật rồi manh áo cũ
Lấp lóa bờ tre chào nhé ánh trời hồng
 
Thoi thóp nắng những chiều vàng lịm tắt
Lũ trẻ mục đồng í ới gọi xa xa
Nhớ khói lam quê thơm mùi cố xứ
Củi ướt mắt nhòe thương lắm mẹ ta
 
Khỏa bóng hoàng hôn cánh chim về tổ
Mái nhà xưa ngỡ từng sợi đông lùa
Se sắt nhớ dòng sông năm tháng ấy
Gió cuối ngày phơ phất bóng lau khua...
 

PHỐ XƯA QUẢNG TRỊ MỘT THỜI COI "BÁO CỌP" – Đinh Hoa Lư



Chào bạn đọc
 
Thật sự mà nói, nhóm chữ "coi báo cọp" là từ khá xưa, trước 1975 miền nam hay nói. Thời này bên quê nhà chúng ta có thể hiểu đại khái đó là "coi báo ké" chứ không có gì khác. Nói rõ ra, chữ "coi báo cọp" dành cho khách ghiền đọc tin tức mà chẳng hề bỏ tiền ra mua cho tiệm sách một tờ báo nào hầu giúp cho tiệm khá thêm "chút chút". Xin bạn đọc thông cảm cho người khách ngày xưa đó, lý do chính yếu là khách chẳng có tiền. Con mắt thì muốn coi nhưng cái túi không chẳng hề "cho phép"? "Nghèo là cái tội" - nói như nhà văn hay triết gia nào đó.

MÙA XUÂN CŨ – Thơ Trần Mai Ngân


   

 
MÙA XUÂN CŨ
 
Ngày thơ bé
Tôi ướm thử chiếc áo ba vừa may xong
Màu hồng, bâu lá sen tay nhún
Mùi vải batik thơm nồng tình yêu của ba
Tôi hít hà hôn… mùa Xuân đang về bên cửa sổ
 
Những ngày giáp Tết
Má chỉ huy. Cả nhà dọn dẹp
Cái bàn, cái ghế phải xếp ngay
Xoay bên kia rồi đặt bên này
Bận rộn và ríu ra ríu rít
 
Chợ Tết
Chiếc xe mini* những quả dưa Má lựa
H đạp về chở cả mùa Xuân
Chúng tôi lớn lên thương vội ngập ngừng
Tan chiến tranh mà cả thời lận đận
 
Trước sân nhà tôi cây hoa Mận
Cánh trắng rơi theo gió chơi vơi
Năm tháng qua đi và đến bây giờ
Tôi cũng già như ngày xưa của Má
Bỗng khát thèm ướm lại chiếc áo xưa
 
Đã lâu lắm lòng tôi khép cửa
Xuân không về vì Ba Má còn đâu
Trong niềm vui vương góc muộn sầu
Giao thừa nói: Má Ba ơi! con nhớ lắm!
 
Những ngày cuối năm Giáp Thìn 3-1-2025
                                       Trần Mai Ngân
 
** Xe đạp mini có khoảng năm 1970
- Chiếc áo trong tấm ảnh là của ba tôi may!

TẤT GIAO 漆膠 (KEO SƠN) – Theo Chiết tự chữ Hán



Truyện Kiều có câu:

“Một lời gắn bó tất giao”.
 
TẤT nghĩa là SƠN
GIAO nghĩa là KEO
 
TẤT GIAO là keo và sơn. Bạn tất giao là bạn thân, khăng khít với nhau như keo sơn gắn bó.
 
Đời Hán, có đôi bạn thân là Lôi Nghĩa và Trần Trọng cùng đi thi. Lôi Nghĩa đỗ Mậu Tài (tức Tú Tài), Trần Trọng bị hỏng. Nghĩa muốn nhường cho bạn đỗ để mình chịu hỏng, nhưng quan Thái Sử không nghe. Nghĩa đành giả hóa điên, xõa tóc chạy rông ngoài đường phố, nhất định không nghe lệnh trên. Sau hai người cùng đỗ Hiếu Liêm một khoa, rồi cùng được làm quan Thượng Thư. Người đời bấy giờ ngợi khen đôi bạn ấy:
 
Giao tất tự vị kiên
Bất như Lôi dữ Trần

Nghĩa là:
 
Keo sơn tuy bền chặt
Còn kém Lôi với Trần
 
Từ đó, người ta dùng hai chữ TẤT GIAO để diễn tả tình bạn thân mật khăng khít.
 
                                                                     Theo Chiết tự chữ Hán