BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 7 tháng 1, 2025

“EM”, MỘT TÌNH THƠ HAY CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Giáp Kiều Hưng


Tác giả Giáp Kiều Hưng

 
EM
 
Ta gạ em cạn chén
Thế là em cạn ta
Nửa đời ta trễ hẹn
Em nồng nàn đốt ta.
 
Run rẩy, em ghì ta
Quấn vào ta hoang dại
Thẫn người, ta ngây dại
Uống em từng giọt say.
 
Trời đất như cuồng say
Ngả nghiêng theo nhịp phách
Nửa đời trai trinh bạch
Em nhuộm ta ngả màu.
 
Hà Nội, đêm 21.01.2015
Đặng Xuân Xuyến

*
 
“EM”, MỘT TÌNH THƠ HAY CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
                                                                         Giáp Kiều Hưng
 
Người ta ví von người phụ nữ như lửa, có thể thiêu đốt cả thành trì, lâu đài, thậm chí cả một vương triều... quả thật không sai. Ở EM, ngọn lửa ấy đã thiêu đốt một thành trì TA “trinh bạch” sừng sững được “nửa đời” người rồi.

THƯƠNG VỀ MIỀN TRUNG – Đinh Hoa Lư



Đã bao lâu rồi không về Miền Trung thăm người em
Nắng mưa đêm ngày cách trở, giờ xa xôi đôi đường
Người ơi Có về miền quê hương thùy dương
Nước chảy còn vương bao niềm thương,
cho nhắn đôi lời...
                                                        (Nhạc Minh Kỳ)
 
Mưa quê hương, đó là lúc ta đưa tay hứng những giọt nước trong ngần, mát lạnh; chợt một niềm thương, nỗi nhớ len lén vào lòng. Kỷ niệm về một thuở tuổi thơ, những chiếc thuyền giấy nổi bập bềnh theo trọt nước trước hiên. Ngày đó xa rồi, dưới mái tranh quê hay miền trung chứa chan hoài niệm.  Nhưng mỗi khi quê hương đang chống chọi trong dòng nước lũ cố tìm sự sống thì bao giọt mưa kia lại hiện thân cho nỗi lo sợ hãi hùng. Mưa quê hương mỗi lúc đông về kèm theo nước lũ đó là lúc trời đất biến thành khổ ải, tang thương phủ chụp lên lớp người dân nghèo lam lũ. Bao dòng nước mắt đau thương miền trung sao vẫn tuôn rơi mãi với số phận định phần.
 

GIÓ MÙA ĐÔNG TÊ ĐIẾNG BÀI THƠ – Thơ Trần Vấn Lệ


   


Thư gửi bằng email
không dán tem
gửi đi hoài... mà quên?
nên không thấy hồi âm gửi lại!
 
Ờ thì mình quên
cho lòng mình thoải mái!
Ngó ra trời trống trải,
bến bờ đâu cho email ghé về?
 
Sau một đêm ngủ mê
uống thuốc ngủ gấp đôi cho mình ngủ thiếp,
sáng mở máy ra... không kịp
đọc email reply như đọc sớ dâng Vua!
 
Đường xe lửa trăm năm hoen rỉ
chẳng sao mà... vì ta có tàu bay,
ta có tàu thủy đi đó đi đây...
thì xe lửa cũng là tàu để nó ở trong âu thuyền cũng phải!
 
Người Bắc người Nam như con trai con gái
chưa có tình thì hai mặt ngó lơ,
nên những con tem thư
càng ngày càng lên giá!
 
Một đồng đô la bây giờ không mua được gì nữa cả!
cứ một đồng thì thuế mười phần trăm
vò tờ giấy bạc bỏ vô túi quần
nó không chịu yên mà lăn ra bãi rác...
 
*
Gửi thư dán tem thì thư đi lạc,
gửi email đì thì... lác đác mây bay.
Mây bay về chân mây.
Anh nhớ chân mày của em, nhớ quá...
 
Cái gì đã quen mà không có một ngày hóa lạ?
Có con sông nào chỉ một đầu sông?
"Quân Tương Giang đầu, thiếp Tương Giang vỹ,
cộng ẩm Tương Giang thủy, tương cách bất tương kiến!"
 
Mười tám chữ thơ, buồn tay ném liệng,
Gió mùa Đông tê điếng thời gian...
 
                                                                 Trần Vấn Lệ

LẶT LÁ – Thơ Lê Phước Sinh


   

 
LẶT LÁ
 
Lặt Lá lên nụ non,
nằm trên thân già cỗi.
Mong cho chồi nhiều nhựa
sinh khí đón xuân thời.
 
Mù sương ve vãn gió,
chọn về sáng hồng tươi...
 
             Lê Phước Sinh

NỖI LÒNG, NHÂN THẾ, MÙA HOA CÚC, BIỂN CẢ, HỮU HỮU LẠI VÔ VÔ, THỆ THỦY, HOA PHÙ SAO, HẬU TIỀN, TRĂM NĂM - Thơ Chu Vương Miện


   


NỖI LÒNG
 
á nguyên Cao bá Quát
làm thơ, kẻ đọc là vua Tự Đức?
con chim thất tình lạc bầy?
câm mồm không muốn hót?
câu thơ thi xã con thuyền Nghệ An
hình như là chuyện thật?
giặc châu chấu ở Mỹ Lương
chuyện tỉnh Hà giang với loài chim
5 trâu 6 cọc - bắt cô trói cột
nằm trên gác xép
chuyên trị một cặp nàng tiên nâu
dịch văn liêu trai chí dị?
không ai đọc? buồn quá rồi tịch?
chu tầm chu mã tầm mã ?
kinh tế loại một
nước lớn cũng có hồi khánh kiệt
kinh tế loại gà mờ gà chết
nước nhỏ tứ thời bốc cứt?
cơm chả ai muốn ăn?
phở chỉ còn nửa giá rẻ mạt
chị em ta? phô tài sắc?
không kiếm nổi một xu?
đành ngồi ôm mặt khóc?
đá mòn
 
hồng hoang nước chẩy đá mòn
tình mình lỗ chỗ chả còn bao nhiêu?
nâng niu còn khoảnh chợ chiều?
chòi tranh lác đác mái xiêu dật dờ?
xóm nhà mấy lá phất phơ
hang cau lả ngọn? hết chờ hết mong?
sá gì? nước chẩy lá môn
tình mình rồi cũng hết trơn em à?
 

Thứ Hai, 6 tháng 1, 2025

NHÀN THOẠI: “PHỐ VÀ NHÀ” HAY “PHỐ VÀ ĐƯỜNG” - Tử Yếng Lương Hoài Trọng Tính

 

Gần đây, thấy nhiều người hỏi về chuyện “Phố A B C – Phố Vải, Phố Ẩm Thực”… Kỳ thiệt, không phải bá gia họ thấy kì đâu! Ngay tại tôi vẫn thấy rất là kì khôi, bởi lẽ:
 
 1. Xét về phương diện kiến trúc
 
Trong các hình thái kiến trúc nhà ở phong cách Miền Nam, chia làm hai dạng thức chánh là Nhà ở quê và Nhà ở Thị thiềng.
Theo đó, tên gọi cũng phân biệt như sau:
- Các công trình dân dụng ở Quê, hay thường kêu là Nhà (thông dụng là nhà vườn)
- Các công trình dân dụng ở Chợ, Thị Thiềng, hay kêu là Phố. Phố nầy tức là Phố xá, chỉ về những công trình thiên về buôn bán, ở trong khu vực châu thành thị tứ.
Chữ Phố 舖 trong văn hóa miền Nam, chỉ về một căn nhà ở tại thị thiềng, nên sau nầy mới sanh ra chữ Nhà Phố (Phố Xá) vậy!
Chữ Phố  nầy không bao hàm ý nghĩa như một Cái Lộ hay Cái Đường, di chuyển nào hết. Ở miền Nam, còn vài địa danh gắn với chữ Phố như Cù Lao Phố (Chữ Nho là Đại Phố Châu 大舖 , kêu Nôm là Cù Lao Phố 岣嶗舖) ở Biên Hòa, Đồng Nai, ý chỉ về Cù Lao có nhiều Phố Xá buôn bán sung túc, Khu phố ở phía Đông nên cũng kêu là Đông Phố (xem thêm ĐNQATV-Huỳnh Tịnh Của). Người đứng Chủ Phố kêu là Bổn Phố vậy! Rồi Thành Phố, trong Thành (thiềng) có Phố buôn bán!
Đơn cử, có thể xét định nghĩa trong Đại Nam Quấc âm tự vị của Đốc phủ Của, trương 200, mục chữ Phố, như sau “Nhà buôn bán thường cất dọc chợ, nhà bán hàng xén. Phố xá, Phố Phường, …”.
Cách xài nầy vẫn còn thịnh hành trong đời sống và Phố = Nhà mà thôi!

Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

CÁI TÔ HAY CÁI TỘ - Lý Hồng Bảo



Thấy qua nay trên Fb đang chia sẻ um sùm chuyện cái tô, cái tộ. Thiệt ra tất cả đàng trong đều gọi là cái tô. Còn tộ là do phát âm thôi chớ không có chuyên to hay nhỏ mà kêu tô hay tộ. Còn cái tô bự thì kêu tô/tộ tượng, cái gì to bự người ta hay gán chữ tượng (voi) vô.
 
Nhưng cái mà giới trẻ bây giờ không biết chánh là cái tô trong hình. Nó có tên là tô chiết yêu, phần trên to, phần dưới túm lại. Theo nhiều người giải thích thì ban đầu tên là tô chít eo, vì nó bóp nhỏ lại từ phần lưng của tô, lâu ngày đọc trại đi thành tô chiết yêu.
Tô chiết yêu ngày xưa nhà nào cũng có không kể sang, hèn. Nhưng được dùng nhiều nhứt là thời bao cấp, vì nó đánh lừa thị giác, trên to nhìn tưởng nhiều, nhưng ở dưới đồ ăn rất ít. Đặc biệt là các hàng gánh bán rong, không có ghế mà ngồi xổm bưng tô ăn, phần dưới tô nhỏ nên đặt vừa trong lòng bàn tay.
 
Miền bắc không có tô, chén ăn cơm họ gọi là bát, còn cái tô, tộ thì kêu là bát ô tô. Chén của họ là cái li uống trà, uống rượu của đàng trong, còn cái bình uống nước, uống trà họ kêu là ấm, đàng trong cái đồ để nấu nước sôi mới gọi là ấm.
                                                                                     Lý Hồng Bảo

CA SĨ LÊ UYÊN: “LÊ UYÊN VÀ PHƯƠNG CHƯA BAO GIỜ CHIA TAY” – Tạp chí Âm Nhạc



Cho dù là bao nhiêu năm, nhạc Việt vẫn không thể quên được ba cặp ca-nhạc-sĩ là Trịnh Công Sơn - Khánh Ly, Từ Công Phụng - Từ Dung và Lê Uyên - Phương. Mỗi cặp đôi chất chứa trong tâm hồn mình những giai điệu và nỗi niềm khác...

Mối dây liên kết của họ, gọi là tình yêu thì vẫn chưa đủ, mà như một định mệnh. Như Lê Uyên Phương, kể từ khi ông gặp cô tiểu thư Lâm Phúc Anh tại Đà Lạt, cuộc đời cả hai người đã xoay chuyển theo một chiều hướng không ai đoán định được. Ngày ấy, vì yêu âm nhạc của ông, cô tiểu thư ấy trốn nhà đi gặp ông, bất chấp ba mẹ cấm cản.
Sau này, ngay cả khi đã trở thành một cặp tình ca, hai người vẫn muốn mình là của nhau bằng mọi hình thức, và đó là lý do ông “cắt” nghệ danh Lê Uyên Phương của mình thành đôi: ông là Phương, còn Lâm Phúc Anh là Lê Uyên.

Cái tên Lê Uyên - Phương từ đó đi vào âm nhạc Việt Nam với giai điệu tình yêu mãnh liệt của ông và tiếng hát trầm khàn không ai thay thế được của bà.


Lê Uyên Phương mang trong người một căn bệnh, được phát hiện năm ông 27 tuổi, mà nhiều người vẫn tin rằng ông có thể ra đi sớm, chỉ có bà là không tin. Nhiều người nói, chính Lê Uyên đã khiến Phương có nhiều sáng tác để đời về tình yêu như thế, và chính tình yêu của Phương đã mang đến cho giọng hát Lê Uyên sự đặc biệt thế. Rời Việt Nam năm 1979, Lê Uyên nói, cuộc sống của bà tuy sau đó thay đổi hoàn toàn nhưng vẫn tràn đầy âm nhạc và tình yêu, như lý do hai người đến với nhau.

ĐÓA HOA MÀU TÍM TƯỞNG NÀNG BÓNG MÂY – Trần Vấn Lệ



Giờ này chắc đã chưa trưa, bởi sương nhiều quá, ngày chưa rạng ngày...
Giờ này, giờ của chim bay, biết đâu biển Bắc hay Đoài, chẳng sao...
Nhớ em muốn được cúi chào màu xanh của núi cũng màu của sông.
Biết đau lắm chớ tấm lòng của người tàn cuộc đời không còn gì...
Không nhìn nữa, không chớp mi.  Thời gian cứ tới và đi, không về...

*
Chẳng hiểu sao gọi tóc thề, minh sơn thệ hải... bốn bề vậy thôi!
Con chim thì gọi chim trời, con thú với lại con người... thế gian!
Lát rồi sương chắc sẽ tan, chiếc xe bus học trò vàng chạy qua...
Biết đâu trưa có trăng tà...nhìn trong cái tách thấy xa xa buồn...
Nghĩ thầm đó cũng là sương! Ngôi Nhà Thờ sẽ rung chuông...Rồi chiều!
Rồi nhìn đâu cũng hoang liêu... chữ Thương Mến, chữ Tình Yêu... một hàng!
Sử hồng có lúc sang trang, đóa hoa màu tím tưởng nàng bóng mây...
 
                                                                                      Trần Vấn Lệ

NHỮNG CHIỀU ĐÔNG, CẢM THỨC XUÂN – Thơ Tịnh Bình


   

 
NHỮNG CHIỀU ĐÔNG...
 
Chút se lạnh gọi đông về nhóm lửa
Ta miên man trong nỗi nhớ quê nhà
Họa ký ức bằng trang thơ giấy trắng
Những chiều đông sương đọng cánh đồng xa
 
Con cúm núm kêu chi lời khắc khoải
Chân đất đầu trần nào đã hay đông
Gió vi vút chật rồi manh áo cũ
Lấp lóa bờ tre chào nhé ánh trời hồng
 
Thoi thóp nắng những chiều vàng lịm tắt
Lũ trẻ mục đồng í ới gọi xa xa
Nhớ khói lam quê thơm mùi cố xứ
Củi ướt mắt nhòe thương lắm mẹ ta
 
Khỏa bóng hoàng hôn cánh chim về tổ
Mái nhà xưa ngỡ từng sợi đông lùa
Se sắt nhớ dòng sông năm tháng ấy
Gió cuối ngày phơ phất bóng lau khua...
 

PHỐ XƯA QUẢNG TRỊ MỘT THỜI COI "BÁO CỌP" – Đinh Hoa Lư



Chào bạn đọc
 
Thật sự mà nói, nhóm chữ "coi báo cọp" là từ khá xưa, trước 1975 miền nam hay nói. Thời này bên quê nhà chúng ta có thể hiểu đại khái đó là "coi báo ké" chứ không có gì khác. Nói rõ ra, chữ "coi báo cọp" dành cho khách ghiền đọc tin tức mà chẳng hề bỏ tiền ra mua cho tiệm sách một tờ báo nào hầu giúp cho tiệm khá thêm "chút chút". Xin bạn đọc thông cảm cho người khách ngày xưa đó, lý do chính yếu là khách chẳng có tiền. Con mắt thì muốn coi nhưng cái túi không chẳng hề "cho phép"? "Nghèo là cái tội" - nói như nhà văn hay triết gia nào đó.

MÙA XUÂN CŨ – Thơ Trần Mai Ngân


   

 
MÙA XUÂN CŨ
 
Ngày thơ bé
Tôi ướm thử chiếc áo ba vừa may xong
Màu hồng, bâu lá sen tay nhún
Mùi vải batik thơm nồng tình yêu của ba
Tôi hít hà hôn… mùa Xuân đang về bên cửa sổ
 
Những ngày giáp Tết
Má chỉ huy. Cả nhà dọn dẹp
Cái bàn, cái ghế phải xếp ngay
Xoay bên kia rồi đặt bên này
Bận rộn và ríu ra ríu rít
 
Chợ Tết
Chiếc xe mini* những quả dưa Má lựa
H đạp về chở cả mùa Xuân
Chúng tôi lớn lên thương vội ngập ngừng
Tan chiến tranh mà cả thời lận đận
 
Trước sân nhà tôi cây hoa Mận
Cánh trắng rơi theo gió chơi vơi
Năm tháng qua đi và đến bây giờ
Tôi cũng già như ngày xưa của Má
Bỗng khát thèm ướm lại chiếc áo xưa
 
Đã lâu lắm lòng tôi khép cửa
Xuân không về vì Ba Má còn đâu
Trong niềm vui vương góc muộn sầu
Giao thừa nói: Má Ba ơi! con nhớ lắm!
 
Những ngày cuối năm Giáp Thìn 3-1-2025
                                       Trần Mai Ngân
 
** Xe đạp mini có khoảng năm 1970
- Chiếc áo trong tấm ảnh là của ba tôi may!

TẤT GIAO 漆膠 (KEO SƠN) – Theo Chiết tự chữ Hán



Truyện Kiều có câu:

“Một lời gắn bó tất giao”.
 
TẤT nghĩa là SƠN
GIAO nghĩa là KEO
 
TẤT GIAO là keo và sơn. Bạn tất giao là bạn thân, khăng khít với nhau như keo sơn gắn bó.
 
Đời Hán, có đôi bạn thân là Lôi Nghĩa và Trần Trọng cùng đi thi. Lôi Nghĩa đỗ Mậu Tài (tức Tú Tài), Trần Trọng bị hỏng. Nghĩa muốn nhường cho bạn đỗ để mình chịu hỏng, nhưng quan Thái Sử không nghe. Nghĩa đành giả hóa điên, xõa tóc chạy rông ngoài đường phố, nhất định không nghe lệnh trên. Sau hai người cùng đỗ Hiếu Liêm một khoa, rồi cùng được làm quan Thượng Thư. Người đời bấy giờ ngợi khen đôi bạn ấy:
 
Giao tất tự vị kiên
Bất như Lôi dữ Trần

Nghĩa là:
 
Keo sơn tuy bền chặt
Còn kém Lôi với Trần
 
Từ đó, người ta dùng hai chữ TẤT GIAO để diễn tả tình bạn thân mật khăng khít.
 
                                                                     Theo Chiết tự chữ Hán

PHONG TỤC 風俗 – Theo Chiết tự chữ Hán



PHONG là gió.
Các tục thượng của một nước, một xã hội truyền bá ra như gió thổi đi khắp nơi nên cũng gọi là PHONG, ý nói sự gì kẻ kia xướng lên người này nối theo dần dần thành tục quen, như vật theo gió, vẫn cảm theo đó mà không tự biết vậy.
Do đó mà PHONG có nghĩa là tục thượng, lề thói.
Như PHONG DAO là những câu hát biểu lộ được tập tục một nơi nào.
GIA PHONG là nếp sống tốt đẹp của một gia đình, gia tộc lưu truyền từ đời này sang đời khác.
 
                                                                        Theo Chiết tự chữ Hán

VÌ SAO THÁNG 12 ÂM LỊCH ĐƯỢC GỌI LÀ THÁNG CHẠP? - Phương Anh



Tháng 12 Âm lịch còn được dân gian gọi là tháng Chạp. Nguồn gốc và ý nghĩa của tên gọi này gắn liền với những đặc điểm cuộc sống, hoạt động của người dân trong thời điểm cuối năm.
 
Tháng Chạp là thời điểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong văn hóa Việt Nam, tháng có nhiều ngày lễ, nhiều nghi thức thờ cúng quan trọng hướng về tổ tiên và chuẩn bị tiễn đưa năm cũ, chào đón năm mới.
 
Vì sao tháng 12 Âm lịch được gọi là tháng Chạp?

Từ "chạp" có nguồn gốc từ chữ Hán "lạp", và thường được hiểu là gắn liền với khái niệm lễ lạp. Chữ "lạp" trong tiếng Hán có nghĩa là "bữa tiệc cuối năm" hay "lễ hội tạ ơn cuối năm". Đây là thời điểm mà người xưa tổ chức những lễ hội để cảm tạ tổ tiên, thần linh đã bảo vệ và phù hộ họ trong suốt một năm. Vì thế, tháng này còn được gọi là tháng "lạp" - một thời điểm quan trọng để tổng kết, nhìn lại những điều đã trải qua trong năm và chuẩn bị cho một năm mới.
 
Trong tiếng Hán, từ "lạp" có nhiều nghĩa, trong đó có nghĩa “lễ tế chạp”, tức lễ tế thần vào tháng cuối năm âm lịch. Theo lễ nhà Chu (Trung Quốc), lễ tế tất niên gọi là “đại lạp”. Vì thế, tháng cuối năm được gọi là “lạp nguyệt” (tháng có đại lạp).
 
Ngoài ra, chữ “lạp” trong tiếng Hán cũng có nghĩa là thịt cá muối hong khô. Tháng cuối năm là thời gian người ta tích trữ các loại thực phẩm để đối phó với mùa đông rét mướt, và cũng để chuẩn bị cho Tết Nguyên đán. Trong đó, thịt cá là loại thực phẩm quý giá, quan trọng.
 
"Lạp" về sau phái sinh nét nghĩa “lễ cúng tổ tiên, ngày giỗ”. Khi vào tiếng Việt, lạp bị đọc chệch thành “chạp” và trở thành từ đồng nghĩa với “giỗ”. Cho nên, trong tiếng Việt mới có tổ hợp “ngày chạp” tương đương “ngày giỗ” và thường gộp gọn khi nói là “giỗ chạp”.
 

Thứ Năm, 2 tháng 1, 2025

TUỔI TỴ RẮN Ở TRÊN CÂY – Đỗ Chiêu Đức



Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ... Hết Thìn tới Tỵ, Nhâm Thìn đi thì Quý Tỵ (2013) đến; Giáp Thìn qua thì Ất Tỵ (2025) lại về. Hết Rồng thì tới Rắn, Rồng rồng Rắn rắn, mặc sức mà vẽ Rắn vẽ Rồng, nhưng Rồng thì muốn vẽ sao cũng được, vì chưa ai được hân hạnh thấy qua dung nhan thật sự của nó bao giờ, chứ vẽ Rắn thì phải cẩn thận, không khéo lại "Vẽ Rắn Thêm Chân", chẳng những vô bổ mà còn làm trò cười cho thiên hạ  nữa là đằng khác !
         
Đứng hàng thứ 6 trong 12 con giáp của Thập Nhị Địa Chi, nên có thể tự hào là "Thiên địa ngã trung ương" được. Vì cũng như con người, con rắn có mặt từ thuở tạo thiên lập địa ở cả trời  Đông lẫn trời Tây.

VỀ CÂU ĐỐI “THIÊN TĂNG TUẾ NGUYỆT NHÂN TĂNG THỌ...”



天增岁月人增寿,
 满乾坤福满堂

Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng thọ
Xuân mãn càn khôn phúc mãn đường
 
 Ông hàng xóm của tôi khoe vừa được bạn ở Đồng Nai gửi tặng cho câu đối Tết rất ý nghĩa: “Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng thọ/ Xuân mãn càn khôn phúc mãn đường”. Một ông khác xem qua câu đối cho rằng ở đây có một chữ viết bị nhầm, đó là chữ thiêm nhầm thành chữ tăng. Mặc dù hai chữ này có nghĩa tương tự nhau, nhưng theo ông này thì chữ thiêm mới “đắt”. Xin quý báo giải thích giùm. 
                                    (Nguyễn Quang Thành, Hải Châu, Đà Nẵng)
*
- Câu đối Hán Nôm ở trên nếu chuyển qua quốc ngữ sẽ là “Trời thêm năm tháng, người thêm thọ/ Xuân khắp càn khôn, phúc khắp nhà”. Đây là một câu đối Tết hay. Tuy nhiên, ở vế đầu, người thì cho là “Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng thọ”, người lại cho rằng “Thiên thiêm tuế nguyệt nhân thiêm thọ”. Tăng hay thiêm? Giai thoại dân gian dưới đây sẽ trả lời câu hỏi này.
 
Cao Bá Quát là người giỏi tài văn thơ, từng tuyên bố thiên hạ có 4 bồ chữ thì riêng mình ông đã giữ hết 2 bồ! Lần đó ông về quê nhà ăn Tết, bà con quanh vùng nghe tiếng rủ nhau đến xin câu đối về trưng bày trong mấy ngày xuân. Bữa nọ có hai người cùng vào nhà ông gần như một lúc, chỉ trước sau một bước chân.
 
Người đến trước là một anh làm nghề đóng quan tài (hòm). Người đến sau là một chị mang bầu gần ngày sinh. Sau khi nắm “lý lịch” của từng người, họ Cao không phải suy nghĩ gì, phóng bút viết ngay câu đối cho anh thợ đóng quan tài: Thiên thiêm tuế nguyệt nhân thiêm thọ/ Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường (Trời thêm năm tháng, người thêm thọ/ Xuân khắp càn khôn, phúc khắp nhà).

“MỐI TÌNH CỦA LƯU QUANG VŨ VÀ XUÂN QUỲNH - Châu La Việt

Mối tình si mê vượt nhiều trở ngại, bên nhau tới tận lúc chết của Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ


Tôi là người được anh Lưu Quang Vũ coi như đứa em, và được chứng kiến cả 4 mối tình si mê trong đời của anh. Cả 4 người phụ nữ anh yêu đều là những văn nghệ sỹ chói sáng, đều là mơ ước của rất nhiều đàn ông, và đều yêu anh đến cùng cực. Nhưng hy sinh hơn cả, nồng nàn hơn cả, mạnh mẽ hơn cả, chính là người phụ nữ từ khi nắm tay anh buổi đầu, đã không rời tay anh cho đến phút cuối trên con đường đời ...
 
“Khi cằn cỗi thấy tháng ngày mệt mỏi
Em là sớm mai là tuổi trẻ của anh”…
 
Ngày nhỏ ở với mẹ tôi ở Đoàn ca múa nhân dân TW, tôi biết có hai diễn viên múa mẹ tôi rất yêu quý và thân thiết, là hai chị cùng tên Quỳnh: Chị Thúy Quỳnh và chị Xuân Quỳnh. Nhiều người nói về đội múa xinh đẹp của Ca múa TW ngày ấy, là trước hết nói về hai chị Quỳnh này, thường gọi là “hai đóa hoa quỳnh”. Rồi chị Thúy Quỳnh sẽ suốt đời gắn với nghệ thuật múa, từng là Chủ tịch Hội nghệ sỹ múa VN, còn chị Xuân Quỳnh thì rẽ sang con đường thi ca, trở thành một nữ thi sỹ tên tuổi trên văn đàn. Khi còn rực rỡ dưới ánh đèn sân khấu trong những vũ điệu dân gian mê hồn, hay khi đã ngân lên những vần thơ như chồi biếc, như hoa dọc chiến hào, chị luôn chinh phục được bao người, không chỉ bởi một vẻ đẹp nền nã, mà còn bởi một tâm hồn thơ mơ mộng, tinh tế, và cũng rất nồng nàn. Ngay từ những vần thơ đầu, chị đã làm bao tâm hồn say mê, ngây ngất. Nhất là cùng vẻ đẹp quyến rũ của thi ca, còn là một vẻ đẹp hình thể cũng rất quyến rũ của một nghệ sỹ múa. Chị được cả dáng, được cả hồn. “Làn thu thủy, nét xuân sơn/ Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh”
 

ĐÊM NGHE BÌM BỊP KÊU - Thơ Huỳnh Tâm Hoài, nhạc Nguyễn Hữu Tân, ca sĩ Huỳnh Thanh Sang trình bày

   
Huỳnh Tâm Hoài và Nguyễn Hữu Tân


              

CUỐI NĂM – Thơ Lê Phước Sinh



Ngày buồn như đưa đám
Âm thanh chẳng thèm kêu
Phố thì đang đổ dốc
Phanh thắng tuột mất rồi...

               Lê Phước Sinh 

BỐN MÙA LẶNG THINH – Thơ Tịnh Bình


   
 
 
BỐN MÙA LẶNG THINH
 
Mùa đông ngoảnh mặt đi
Tiếng thở dài của gió
Lao xao đám lá khô
Chim từ quy đếm giọng mình khắc khoải
 
Bên kia hoàng hôn
Chờ âm chuông độ lượng
Chán ngấy những buồn vui
Quấy rầy tâm thức ta câu chuyện phiếm không hồi kết
Lũ sẻ nâu không ngừng thao thao bất tuyệt về mùa xuân
 
Cứ giả vờ say giấc an nhiên
Loài sâu cuộn mình chờ thoát xác
Phía trước bình minh
Phía sau ngàn lời chim hót
Đám mây ham chơi quên mất lối về
Hỏi đường vị thiền sư già không nhớ mình bao nhiêu tuổi
 
Cứ khóc như đứa trẻ
Mùa xuân sẽ dỗ dành ta bằng ngụm nắng tươi non
Mặc bốn mùa lặng thinh mật ngữ
Đất trời có nói gì đâu...
 
                                                                           Tịnh Bình