BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2022

MƯỜI KHÚC THƠ MƠ – Ái Nhân



  
  Nhà thơ: ÁI NHÂN
  ĐT: 0984470914
  Hội viên Hội VHNT - HY
  Hội viên Hội nhà văn Hà nội
  Đã in riêng 10 tập thơ tình
  Ngọc Lâm – Long Biên – HN


 



HIẾN DÂNG
 
Gửi hồn theo cánh chim bay
Mênh mang núi biếc đêm say mộng lành
Đài mơ xây mãi không thành
Miên man ngàn mối tơ mành vấn vương
 
Cuộc đời dãi nắng dầm sương
Đắng cay nhiều vẫn lòng thương kiếp người
Nhân sinh mấy cuộc khóc cười
Trầm luân bể ái thơ lời gió trăng
 
Vươn dài năm ngón tơ măng
Xòe ra bắt lấy sao băng lỡ làng
Lả lơi ơi mắt trăng vàng
Cho mơ chuốt lấy dâng nàng buộc thơ
 
Lạc hồn vào cõi ngu ngơ
Bâng khuâng lê gót bên bờ tử sinh
Cõi người còn lắm vô minh
Trái tim đuốc sáng cháy mình hiến dâng
 

5 BÀI THƠ ĐỘC VẬN 7 CHỮ - Chùm thơ Đặng Xuân Xuyến


 


NGƯỢC DÒNG
 
Hôm nọ có người ghé bến sông
Nói chuyện nhà bên đã gả chồng
Từ độ ngược dòng đi xây mộng
Chả thấy một lần ghé bến sông.
 
Tôi biết người ta chẳng ngóng trông
Chỉ mình tôi với mộng hư không
Chiều qua lạc bước về Kim Động
Tôi lại trắng đêm hứng gió đồng.
 
Tôi biết người ta đã gả chồng
Giờ là mệnh phụ giữa phố đông
Tôi buồn tôi giận tôi dại mộng
Say mãi đò ngang khách má hồng.
 
Đã mấy đông rồi, đã mấy đông
Bếp lửa nàng nhen có đượm hồng
Mỗi bận nàng ra cài then cổng
Có lạnh so người trước gió đông?
 
Nàng có còn quen nép cạnh chồng
Hững hờ dạo gót giữa phố đông
Lá vàng lả tả khi chiều xuống
Có thấm cô đơn bởi gió cuồng?
 
Tôi biết người ta chẳng đoái trông
Chỉ mình tôi với mộng hư không
Tôi buồn tôi giận tôi dại mộng
Lỡ cả chuyến đò khách sang sông.
 
Hà Nội, Ngày 29 tháng 11-2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
 

LƯƠNG CHÂU TỪ CỦA VƯƠNG HÀN – Đỗ Chiêu Đức



CHIẾN TRANH là thảm họa muôn thuở từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, từ Âu sang Á... Có biết bao nhiêu người đã nằm xuống ở sa trường. Sinh ly tử biệt, có mấy ai được lành lặn trở về từ chiến địa đâu ?!... Mời đọc LƯƠNG CHÂU TỪ của Vương Hàn đời Đường để thấm thía hơn với nỗi niềm "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi ?!"...
  
                     LƯƠNG CHÂU TỪ            
   王                                    Vương Hàn
 
葡萄美酒夜光杯,    Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
欲飲琵琶馬上催。    Dục ẩm tì bà mã thượng thôi.
醉臥沙場君莫笑,    Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
古來征戰幾人回。    Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi?
 


KHÔNG BÀY TỎ - Thơ Trần Mai Ngân


  
                      Nhà thơ Trần Mai Ngân
 
 
KHÔNG BÀY TỎ
 
Tôi đến đây tìm trên ô cửa cũ
Dấu vân tay mình đã bấu thật sâu
Phút phù hoa thần thánh như tình đầu
Chân khuỵu giữa mênh mông trời vô vọng
 
Tôi trở về lạ xa từ giấc mộng
Cây Sầu Đông cũng lặng lẽ buồn theo
Tuổi úa vàng dấu heo may trên mắt
Có dõi theo cũng mù loá phương trời
 
Bốn mùa đi rồi đến vẫn im hơi
Cuồng quay bởi những lời không bày tỏ!
 
                                       Trần Mai Ngân
 

NHỮNG KỶ NIỆM VÀ SẺ CHIA CÙNG EM TRAI ĐỖ TƯ NGHĨA – Đỗ Tư Nhơn

Gần đến ngày Tiểu Tường của anh Đỗ Tư Nghĩa, mời quý anh chị Đồng Môn Nguyễn Hoàng đọc bài viết của thầy Đỗ Tư Nhơn viết về em trai của thầy

       
Giờ đây Nghĩa đã về với tổ tiên, ông bà, thầy mợ nơi cõi vĩnh hằng sau 75 năm:
        
“Bước lững thững qua trần gian một bận           
Đã thấy sầu in vết dưới chân im”
                                       (Bi khúc I.1972)
 
Những kỉ niệm với gia đình, bè bạn còn trong ký ức của những người thân, từng gắn bó kết giao tình cảm. Ba chị em chúng tôi: Đỗ Thị Như Mai, Đỗ Tư Nhơn, Đỗ Tư Nghĩa vốn nguyên quán là làng Cui, Tuy Lộc, Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Cụ cố tổ làm chức quan Đề lại Hoằng Hóa, được thờ tại đền Nghè Cáy từ xưa cho đến bây giờ - thuộc Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Bố chúng tôi vào Quảng Trị làm viên chức thừa phái dinh Tuần Vũ đóng tại Thành cổ, nhưng mất sớm lúc tôi vừa lên ba, Nghĩa còn trong bụng mẹ.
 

Thứ Năm, 30 tháng 6, 2022

HẠ QUỐC HUY VÀ TIÊU DAO BẢO CỰ - Bài viết của Tiêu Dao Bảo Cự


 
                             Hạ Quốc Huy và Tiêu Dao Bảo Cự ngày ấy.
 
Hạ Quốc Huy hiện nay là Đại Võ sư, Sư trưởng, Chưởng môn Quyền Đạo Võ Công, môn phái do ông sáng lập ở California, Hoa Kỳ, nơi đào tạo các võ sinh từng ba, bốn lần đoạt chức vô địch Karaté thế giới. Ông còn là họa sĩ, nhà thơ đã đoạt nhiều giải thưởng Văn học nghệ thuật thời Việt Nam Cộng Hòa. Thơ của ông được nhiều người tán thưởng và vô cùng độc đáo, một không gian thơ lảng đảng giữa mơ và thực, hòa quyện quá khứ và mộng tưởng, lãng mạn nhưng hào hùng bi tráng, nhiều cách tân sáng tạo trong thể hiện, không lẫn với ai khác, mà tôi muốn gọi là dòng Thơ Hạ.
 
Ông cũng từng là tù cải tạo, vượt ngục và vượt biên sang Hoa Kỳ. Qua những gì ông thể hiện sau này, tôi muốn gọi ông là “người chiến bại vĩ đại”.
 
Ngày xưa chúng tôi là hai chàng trai trẻ quen biết nhau trong khung trời Đại Học Huế. Hai người lựa chọn đi hai hướng đời trái ngược nhau, có thể đã trở thành đối địch, nhưng may là chưa từng có dịp đối đầu. Rất nhiều năm sau, qua bao nhiêu dâu bể và biến động lịch sử, chúng tôi gặp lại nhau trên không gian ảo và có một cuộc trò chuyện đáng nhớ qua Fb. Được sự đồng ý của Hạ Quốc Huy, tôi đưa lại nội dung cuộc trò chuyện này, như nhắc lại, chia sẻ một kỷ niệm vui và hi vọng người đọc có thể rút ra một điều gì đó.
 
Chúng tôi đã cố tình viết theo một “văn phong xưa cũ”, khác hẳn lối hành văn hiện đại, cũng là cách hồi tưởng và lưu dấu một thời.
 

NHỮNG BÀI TỨ TUYỆT #6 - Nguyên Lạc


   
                  Nhà thơ Nguyên Lạc

 
CHIỀU ĐỢI SÂN GA
 
Em về nhé? Ta vẫn chờ em đó!
Phố chiều nay nghiêng sợi nắng rất buồn!
Ghế đá lạnh đèn sân ga mắt đỏ
Tàu sẽ về? Ta vẫn mãi đợi mong
 
 
TÌNH KHÚC QUÁN CHIỀU
 
Ta đang đợi ta đang chờ em đó?
Quán chiều nay mưa lất phất sợi buồn!
Có gì đâu nhòe mắt lệ vấn vương?
Đời đã đợi... trầm thống chi nỗi nhớ?
 
 
CÀ PHÊ ĐÊM
 
Sâu góc quán đêm ly cà-phê đắng
Từng giọt trầm rơi buồn đọng trên môi
Nhạc khúc "Tình sầu" người rồi xa vắng
Giọt đắng tiếng đời cô lữ đêm trôi!
 
 
THIÊN THU
 
Thiên thu tình đã thiên thu
Thì thôi nhan sắc sương mù huyễn không
Huơ tay lạnh một chỗ nằm
Ôm đêm cô lữ căm căm giấc hồ
 
 
HƯƠNG SẮC
 
Tình khói sương huyễn mộng
Nhân thế là giai không?
"Một phương trời ta vọng"
Hương sắc người trăm năm!
 
                         Nguyên Lạc
 

Thứ Tư, 29 tháng 6, 2022

NỖI LÒNG TAM NGUYÊN, THÁC QUÁ NHIỀU - Thơ Chu Vương Miện


  

 
NỖI LÒNG TAM NGUYÊN
“Gửi Anh Cung Tích Biền”
 
Nào tiểu khoa đại khoa
Đứng đầu cả
Tổng đốc ba tỉnh Sơn Hưng Tuyên
Giờ bó tay dưới quyền quản chế
Của tri huyện Hưng Yên Lê Hoan
Tay em của Kinh Lược Sứ Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải
“nguyên là con trai ngoài hôn thú của Cao Bá Quát
và vợ của thông phán Hoàng Văn Thông
thuộc cấp dưới quyền quan huyện Nông Cống Cao Bá Đạt”
Già tuy có già
Nhưng chết chưa chết?
Nhập gia tuỳ tục nhập giang tùy khúc?
Đéo có chi vui?
Mà toàn là nhục
Có người có cơ may
Có dịp để mà chết?
Như Ức Trai, Võ Tánh, Ngô Tòng Chu, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương...
Có người bị bắt làm tù binh
Tay cùm chân xiềng bịt kín cả hai mắt
Bị giải bằng đường bộ
Cúi đầu đi qua ải Nam Quan về Kim Lăng
Như Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương, Nguyễn Phi Khanh
Một lũ đi dưới giáo gươm dí vào lưng
Mình chả được giống ai ?
Hưu chả ra hưu tù chả ra tù
Sống không ra sống mà toi chả ra toi?
Mà chết quách đi cho rồi
Hèn quá xá không dám thác?
Sống đi ra đi vào
Trong bờ tre khóm trúc
Kèm trẻ em học vỡ lòng
Lớp đồng ấu
Chủ tịch dổm hội thơ Tao Đàn Vườn
Xướng hoạ thơ Kim Vân Kiều truyện
Hai mắt thong manh thưởng thức hoa Trà
 Bằng hai lỗ mũi
Quẩn quanh một bày xỏ lá
“còn cha thi pha chi đốt lông dái
Còn mẹ thì đốt cả lông l…”
Một lũ quan ôn
Cũng xuất thân cửa Khổng sân Trình
Giờ làm tay sai chả đúng
Một lũ bán nước ác ôn
Ngẫm đáng trách đáng buồn?
Một đống kinh thư một dẫy nho chùm
Đi ra rồi lại đi vào
Trong tư dinh thằng quan huyện
Thời thế nhố nhăng
Thời hoàng hôn nhá nhem nửa Ta nửa Pháp
Nửa Hán nửa Chệt nửa Hoa Lục Súc
Chán thấy bà mụ nội
thời buổi chừ cơm cũng ngang xôi
giả cầy thay thế thịt chó
toàn ba rọi răng cải mả
ôi đời 3 nguyên? chấm dứt
 

Thứ Ba, 28 tháng 6, 2022

NHỮNG ĐOẢN KHÚC BUỒN - Thơ Lữ Thượng Thọ

Lữ Thượng Thọ, bạn đồng môn Nguyễn Hoàng, tài hoa bạc mệnh....


   
              Nhà thơ Lữ Thượng Thọ 
                      (1954- 2014)


ĐÁ TRẦM
 
Đuổi bóng chim về lạc phố xưa
Tình buồn theo gió rụng theo mưa
Lỡ sầu giọt lệ trên môi đắng
Đành vắng hương yêu giữa tiếng đùa
Một phút thôi rồi người mất biệt
Trăm năm còn mãi rượu tàn chưa?
Đá nằm cho nước Trường Giang vỗ
Đau nỗi triền miên suốt bốn mùa.

                              20 / 10 / 1984
 
 
THẤT TÌNH
 
Thoáng nghe nụ cười trong đêm sương
Chân bước lên trên cỏ vấn vương
Tạc đá thành người cho đỡ nhớ
Dựng cây nên bóng để vừa thương
Tủi hoài tay ngọc trong lòng gió
Tiếc mãi tóc vàng dưới đám hương
Chôn nỗi đau rồi còn nỗi hận
Bâng khuâng với rượu suốt canh trường.

                                        10 / 10 / 1984
 
 
ĐÊM TRĂNG MƯA NHỚ NGƯỜI
  
Lệ nào đẫm ướt áo bi thương
Cho ánh trăng xưa héo nỗi buồn
Nước cứ một dòng hờ hững chảy
Mưa còn bốn phía lạnh lùng tuôn
Khổ cây quế ở trong nghìn chữ
Đau bóng ai về có một chương
Mực bút nhớ người không nói được
Nên sầu mãi mãi vẫn tơ vương.

                           30 / 03 / 1985
 
 
TUỔI GIÀ
 
Gom tiếng thời gian lắng nhịp chơi
Mai hai hàng nến khóc thương đời
Giang hồ nửa kiếp chưa nên mặt
Thân thế nghìn thu đã hổ người
Trái chín đêm già còn trước mắt
Nụ xanh ngày trẻ vắng trên môi
Mây mang bóng xế về non thẳm
Đốt cháy tà dương một nụ cười.

                           27 / 12 / 1984
 
 
TUỔI GIÀ 3
 
Ngực còn hơi thở nhớ chưa nguôi
Khói sóng trùng dương lấp nụ cười
Tay với tay thề duyên đã lối
Môi cùng môi hẹn ý khôn vơi
Đã đưa cơn mộng vào trong giấc
Lại đẩy niềm đau đến cuối trời
Đợi tím hoàng hôn mờ bóng nguyệt
Buông gầy tóc trắng giữa ngàn khơi.

                                               1985
 
 
BÀI THƠ TRÊN ĐÁ
 
Khắc thơ lên đá một vài câu
Cho đến thiên thu đọc cũng sầu
Rượu có bầu đầy say biển khổ
Bút còn giọt đắng vẻ dòng châu
Nghìn năm đối bóng soi thân thế
Phút chốc nhìn ta thấy bạc đầu
Chán kiếp phù sinh cười dã dượi
Quay về chẻ tóc hoá mưa ngâu.
 
                          12 / 09 / 1984
                        Lữ Thượng Thọ
 

  

NHỚ TRỜI QUÊ NGOẠI – Thơ Tịnh Bình


   


NHỚ TRỜI QUÊ NGOẠI
 
Hoàng hôn rơi giọt nắng tàn
Đàn chim xoãi cánh đa mang cuối trời
Chút gì man mác tôi ơi...
Lục bình hoa tím chơi vơi giữa dòng
 
Nhớ trời quê ngoại buồn không
Gòn bay trắng lối hoài mong niềm gì
Những mùa tuổi dại thiên di
Hoa chanh hoa bưởi xuân thì trao ai
 
Hoen chiều sợi khói mờ cay
Còn đâu dáng ngoại những ngày bé thơ
Câu ca đi lạc vào mơ
Ngân rung tiềm thức vô bờ nhớ thương
 
Vớt chiều đôi sợi nắng vương
Đôi bờ lau lách sao dường xa xôi
Nhớ trời quê ngoại lòng tôi
Vàng bông bí nở dưới trời mưa tuôn...
 
                                     TỊNH BÌNH
                                       (Tây Ninh)

ƯỚC CHI ! – Thơ Thùy Châu


   

 
ƯỚC CHI ! 
 
Ước chi trở lại ngày xưa nhỉ
Để có tình yêu thuở dại khờ
Cái thuở quần xanh ôm áo trắng
Ngày theo bước nhỏ tối làm thơ
 
Mười sáu vào đời tuổi mộng mơ
Cứ thương cứ nhớ cứ đợi chờ
Chờ ai ? Hỏi lòng... lòng không biết
Hỏi hoài chỉ thấy... thấy ngu ngơ
 
Sáng nghe chim hót nhớ vu vơ
Đến lớp vời trông với... đợi chờ
Chiều về chân sáo bên bè bạn
Sao lòng cứ mãi thấy bơ vơ
 
Ngày xanh áo trắng đẹp như mơ
Chưa vướng trần gian những bụi mờ
Đời như trang giấy thơm mùi mới
Tình người chỉ để... để làm thơ
 
Thời gian dần trôi chẳng đợi chờ
Ngày xanh dấu ái đã xa lơ
Tuổi đời chồng chất hằn năm tháng
Kỷ niệm thương ơi phủ bụi mờ!
    
                                Thùy Châu

PHÚT SUY TƯ – Thơ Bùi Thị Minh Loan


   
                 Nhà thơ Bùi Thị Minh Loan

 
PHÚT SUY TƯ
 
Độc bước giữa buổi hoàng hôn sắp tắt
Nhìn khung trời đang dịch chuyển vào đêm
Nghe lạ lắm bước chân và hơi thở
Vừa trẻ thơ vừa như thuở trăng rằm
 
Chưa bao giờ như thế, bấy nhiêu năm
Khoảnh khắc lạ như hạt mầm vừa nhú
Như vườn hồng đang thì vừa chớm nụ
Ngậm sương mai, quyến rũ đến nao lòng
 
Vẫn muốn ngắm phút tan giọt sương trong
Vẫn muốn ôm một đóa hồng bung nở
Nhưng lẽ đời khốc khô thường trần trụi
Sợ rụng tàn làm tiếc nuối, nhiễu tâm
 
Muốn lưu giữ vị ngọt của tháng năm
Muốn thắm mãi nụ hôn đời thơm mật
Ta, không ta hai phía lòng rộng, chật
Níu, xô nhau, trở lật cả trăm chiều
 
Và một chiều, phía ấy ngược hoàng hôn
 
                               Bùi Thị Minh Loan

Thứ Hai, 27 tháng 6, 2022

NHỮNG TỪ NGỮ LÝ THÚ BẤT NGỜ "PHỤ MẪU" 父母 – Phiếm luận của Đỗ Chiêu Đức



Nhân này LỄ CHA, xin được truy nguyên về sự hình thành của chữ PHỤ là CHA. Theo "Chữ Nho... Dễ học" thì chữ PHỤ thuộc dạng chữ mượn Tượng Hình để Chỉ Sự theo diễn tiến của chữ viết như sau:
                  
    Giáp Cốt Văn       Đại Triện             Tiểu Triện              Lệ Thư
                   

Ta thấy:
           
Giáp Cốt Văn và Đại Triện là hình tượng của một người đang cúi mình dang hai tay ra phía trước, một trên một dưới, ở giữa là một cây nọc dùng để xăm lổ để bỏ hạt giống gieo trồng. Đó là người lao động chính để nuôi sống gia đình, là hình tượng của NGƯỜI CHA trong xã hội nông nghiệp sơ khai. Đến Tiểu Triện thì các nét được kéo thẳng ra để tạo thành chữ viết, đến chữ Lệ của đời Tần thì chữ PHỤ đã giống như chữ viết hiện nay.
             
PHỤ là CHA, là Chồng của Mẹ trong gia đình; còn ngoài xã hôi PHỤ là những bậc đáng hàng Cha Chú, như Hương Thân Phụ Lão 鄉親父老 là nhóm từ dùng để chỉ "Những bậc trưởng thượng trong làng xóm". Sư Phụ 師父 là Thầy dạy, Thần Phụ 神父 là Ông Cha (trong nhà thờ)... Trong gia đình ta còn có:
     
TỔ PHỤ 祖父 là Ông Nội, NGOẠI TỔ PHỤ 外祖父 là Ông Ngoại, BÁ PHỤ 伯父 là Bác, THÚC PHỤ 叔父 là Chú, CỬU PHỤ 舅父 là Cậu... 
     
PHỤ khi đọc là PHỦ (dấu hỏi) còn dùng để chỉ những người già, người cao niên, được gọi một cách thân thiết và kính trọng, như:
     
ĐIỀN PHỦ 田父 : là Ông già làm ruộng, là Lão Nông ,là ông Nông dân già.
     
NGƯ PHỦ 漁父 : là Ông lão đánh bắt cá, là Ông Câu, là Ngư Ông.