Tháng 3 năm Hồng Đức thứ 3 [8/4-7/5/1472] (Minh
Thành Hóa thứ 8), cho các thư lại đỗ thi Hương, được thực thụ chức
quan. Mở kỳ thi Hội, lấy đậu 26 người; qui định đề tài trong 4 kỳ
thi:
“Tháng
3, hạ lệnh rằng, lại viên các nha môn nếu thi đỗ khoa thi hương thì được bổ lên
chính quan…
Thi hội chọn sĩ nhân trong nước. Lấy đỗ bọn Lê
Tuấn Ngạn 26 người. Phép thi:
Kỳ thứ nhất ra 8 đề về Tứ Thư [Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại Học, Trung Dung], người thi tự
chọn lấy 4 đề, làm 4 bài văn, Luận Ngữ
4 đề, Mạnh Tử 4 đề. Ngũ Kinh [Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu]:
mỗi kinh 3 đề, người thi tự chọn 1 đề mà làm. Duy kinh Xuân Thu thì 2 đế gộp làm 1 mà làm.
Kỳ thứ hai thi chế, chiếu, biểu; mổi loại 3 đề.
Kỳ thứ ba, thơ, phú, mỗi loại 2 đề; phú dùng
thể Lý Bạch.
Kỳ thứ tư, 1 bài văn sách, hỏi về chỗ dị đồng
trong nghĩa lý của kinh truyện, điều hay dở trong chính sự của các đời.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 12, trang
72a.
Ngày mồng 7 tháng 4 [14/5/1472], thi Đình; Vua
đích thân ra đề thi. Ban hạng cao thấp 26 người đã đậu thi Hội; 3
người trúng Tiến sĩ đệ nhất giáp, 7 Tiến sĩ đệ nhị giáp, 16 Tiến
sĩ đệ tam giáp. Các tân khoa chiếu theo thứ hạng; khởi đầu được ban
tước cao thấp khác nhau:
“Mùa
hạ, tháng 4, ngày mồng 7, vua ngự ra hiên, tự mình ra đề văn sách hỏi về đế
vương trị thiên hạ. Vua sai Thái bảo Binh bộ thượng thư kiêm thái tử thái bảo
Kiến Dương bá Lê Cảnh Huy và Thông chương đại phu tả xuân phường tả thứ tử kiêm
Lại bộ thượng thư Trần Xác làm 2 viên đề hiệu; 2 viên (không chép tên) làm giám
thí; bọn Đinh Thúc Thông, Quách Đình Bảo 5 viên làm độc quyển.
Cho
bọn Vũ Kiệt, Nguyễn Toàn An, Vương Khắc Thuật đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ;
bọn Vũ Đức Khang 7 người đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân; bọn Chử Phong 16 người
đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Định lệ tư cách của tiến sĩ: Đệ nhất
giáp, người đỗ thứ nhất cho chánh lục phẩm, 8 tư [bậc]; người đỗ thứ nhì cho
tòng lục phẩm, 7 tư; người đỗ thứ ba cho chánh thất phẩm, 6 tư, đều được ban
chữ “Tiến sĩ cập đệ”. Đệ nhị giáp, cho tòng thất phẩm 5 tư; được ban chữ “Tiến
sĩ xuất thân”. Đệ tam giáp cho chánh bát phẩm, 5 tư; được ban chữ “Đồng tiến sĩ
xuất thân”. Nếu vào Hàn lâm viện thì được gia 1 cấp; nếu bổ làm Giám sát ngự sử
hay Tri huyện thì giữ nguyên phẩm cũ mà bổ.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 12, trang
72b.
Bấy giờ có những vụ tranh chấp đất đai giữa
Long Châu tỉnh Quảng Tây và châu Hạ Tư Lang Cao Bằng. Vào tháng 5, nhà
Minh ra lệnh cho tỉnh Quảng Tây thông báo cho nước ta, yêu cầu khám
định biên giới:
“Ngày 22 tháng 5 năm Thành Hóa thứ 8 [
28/6/1472]. Mệnh ty Bố chánh Quảng Tây thông cáo cho An Nam khám định biên
giới. Trước đó dân châu Thượng Hạ Đống, thuộc phủ Thái Bình nói rằng người châu
Thái Nguyên dựng bảng mốc chiếm ruộng tại thôn Cương Lũng Ủy thuộc châu Thượng
Đống; nay đã dẹp bảng trả lại ruộng. Cư dân Long Châu [huyện Long Châu, tỉnh Quảng
Tây] tiếp giáp với châu Hạ Tư Lang [Cao Bằng] thuộc An Nam bởi ngọn núi làm
biên giới. Phía nam ngọn Thạch Lĩnh thuộc Long Châu, phía bắc ngọn Thổ Lĩnh thuộc
Hạ Tư Lang. Nay người An Nam lập bảng mốc vây chiếm ruộng thuộc 2 thôn Na Nùng,
Lăng Kỳ; cùng ruộng của 3 thôn Khiếu Ma, Ích, Yếm. Tuần vũ Đô Ngự sử Hàn Ung
trình lên, cùng tâu thêm Long Châu và Hạ Tư Lang đều cố chấp, không gặp nhau để
cùng khám xét, nên chung cuộc không có một kết luận rõ ràng. Do đó nên bộ Binh
phúc tấu:
“Nên ra lệnh cho Bố chánh Quảng Tây thông tư
cho Quốc vương An Nam lấy nghĩa lớn gìn giữ cương thổ cũ, không được phép xâm
vượt. Lệnh sai người cùng với Tam Ty Quảng Tây khám lại đất, thiết lập cột mốc
biên giới rõ ràng, để vĩnh viễn tuân thủ.”
Vì
vậy nên ban chiếu mệnh này. (Minh Thực Lục: Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3, trang 87).
Vào cuối tháng 5, Sứ thần Chiêm Thành đến
triều Minh cáo cấp việc Quốc vương Trà Toàn bị An Nam đánh bắt, nên
em là Bàn La Trà Duyệt tạm quyền coi việc nước. Vào tháng sau, Vua
nhà Minh chuẩn bị sai bọn Hữu Cấp sự trung bộ Công Trần Lăng ban sắc phong
cho Trà Duyệt làm Quốc vương. Vào tháng 9, Chiêm Thành lại sai Sứ thần
Lạc Sa Lộng đến triều cống sản vật địa phương; được ban yến tiệc cùng y phục:
“Ngày
21 tháng 5 năm Thành Hóa thứ 8 [ 27/6/1472].
Nước Chiêm Thành sai Sứ thần Lạc Sa đến cáo cấp rằng:
“Nước
chúng tôi tiếp giáp với An Nam, mấy lần bị nước này xâm đoạt. Mới đây sai người
đến đòi tê giác, ngà voi, đồ vật quí; lại đòi hỏi phải phụng sự người An Nam
đưa đến, nghi lễ giống như phụng sự Sứ thần Thiên triều. Nước chúng tôi nghĩ rằng
đã cùng An Nam nhận lịch Chính Sóc của Hoàng triều, nên không chịu khuất tuân
theo, vì lý do đó nên An Nam gây hấn.
Vào
tháng 2 năm Thành Hóa thứ 7 [20/2-21/3/1471],
quân An Nam đến đánh phá kinh thành, bắt Quốc vương Bàn La Trà Toàn cùng gia
thuộc hơn 50 người, tịch thu ấn quí, phá hủy nhà cửa, cướp giết quân dân nam nữ
nhiều không kể xiết. Nay em của Vương là Bàn La Trà Duyệt tạm thời coi việc nước,
cúi xin được phân xử.”
Tờ tâu giao xuống dưới, Thượng thư bộ Binh Bạch Khuê
tâu rằng:
‘Vào năm Thành
Hóa thứ 7, nhân An Nam tâu rằng ‘Chiêm Thành vượt biên giới xâm lăng, cần ngăn
cản sự tàn ngược’. Bọn thần đã tâu rằng Hạo [Lê Thánh Tông] có âm mưu thôn tính
Chiêm Thành, nên dương ngôn bị tấn công; rồi mấy lần đánh phá Chiêm Thành, lại
bắt vua nước này. Nếu không có cách gì xử trí, thì mất lòng qui phụ của Chiêm
Thành, lại dung dưỡng kẻ ngang ngạnh. Nên sai quan mang sắc dụ bắt phải trả lại
ấn tín, Quốc vương cùng gia quyến bị bắt, để khỏi xẩy ra tai họa.’
Chỉ dụ phán:
“Bất
tất phải sai quan đi, đợi Sứ thần An Nam đến sẽ trao sắc dụ.”
(Minh Thực Lục: Quan hệ Trung Quốc
Việt Nam, tập 3, trang 86).
“Ngày 22 tháng 6 năm Thành Hóa thứ 8 [
27/7/1472]. Phong cho Bàn La Trà Duyệt, em cố Quốc vương Bàn La Trà Toàn, kế
tập chức Quốc vương Chiêm Thành. Bàn La Trà Toàn đã bị An Nam bắt, ấn tín của
triều đình ban cho cũng bị lấy mất, người em là Bàn La Trà Duyệt tạm thời trông
coi việc nước, tâu xin phong tước, cùng cấp ấn. Bộ Lễ tâu xin chiếu theo lệ đời
Chính Thống [1436-1449] sai quan đến phong cho Thế tử Ma Ha Bí Cai, để làm vẻ
vang cho lời xin. Chấp nhận; bèn sai Hữu Cấp sự trung bộ Công Trần Lăng, Hành
nhân Lý San thuộc ty Hành nhân đến phong.” Minh Thực Lục: Quan hệ Trung Quốc Việt
Nam, tập 3, trang 87).
“Ngày
5 tháng 9 năm Thành hóa thứ 8 [ 6/10/1472]. Nước Chiêm Thành sai Sứ thần Lạc Sa
Lộng đến triều cống sản vật địa phương. Ban yến tiệc cùng y phục các loại lụa
thải, đoạn có sai biệt.” Minh
Thực Lục: Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3, trang 89).
Hai tháng trước, xảy ra vụ tranh chấp biên giới
giữa Long Châu tỉnh Quảng Tây và châu Hạ Tư Lang Cao Bằng; chưa giải
quyết xong. Tháng 7 này, nhà Minh cho điều tra việc An Nam tố cáo Thổ
quan Sầm Tổ Đức tại phủ Trấn An cùng dân châu Khâm vượt biên giới quấy phá. Sau
khi điều tra tâu lên, phía nhà Minh công nhận vụ Sầm Tổ Đức cho người
vượt biên giới đã xảy ra, phủ nhận việc người châu Khâm vượt biên quấy
phá. Riêng sứ bộ Bùi Viết Lượng vào ngày 21 tháng 9 năm ngoái
[4/10/1471], sang triều Minh nạp cống; Minh Thực Lục xác nhận tháng 9
năm nay đến nơi, được dự yến và ban y phục:
“Ngày 25 tháng 7 năm Thành Hóa thứ 8
[29/8/1472]. Bộ Binh tâu:
‘Trước
đây Quốc vương An Nam Lê Hạo tâu rằng Thổ quan Sầm Tổ Đức tại phủ Trấn An cùng
dân châu Khâm vượt biên giới quấy phá. Bộ Binh cho rằng An Nam thường tranh đoạt
đất đai tại huyện Bằng Tường,[1] Quảng Tây, và dung túng người Di lấy trộm ngọc
trai , nên tạo ra lời tấu man để toại mưu gian. Bèn hạ chiếu cho bọn Tuần vũ Lưỡng
Quảng khám sự thực.’
Đến nay nhận được
lời tâu rằng:
‘Nhân tranh chấp về việc nối chức, Sầm Tổ Đức
mang ấn đến trú tại động Trấn An. Người trong động là Sầm Vọng ăn cắp được ấn;
sự việc phát giác bèn chạy trốn sang động Thông Nông, châu Thái Nguyên, An Nam.
Tổ Đức sai người đuổi theo, nhưng không bắt được, lại bị người Giao đuổi trở về.
Riêng người châu Khâm[2] chưa từng vượt biên cảnh xâm nhiễu. Chờ lúc Sứ giả đến,
nên dụ Vương nước này lo giữ gìn biên cảnh an dân, không được dung nạp người vượt
biên giới.’
Thiên
tử chấp thuận.” Minh
Thực Lục: Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3, trang 88).
“Ngày 6 tháng 9 năm Thành Hóa thứ 8
[7/10/1472]. Quốc vương An Nam Lê Hạo sai bọn Bồi thần Bùi Viết Lương đến
triều cống sản vật địa phương. Ban yến tiệc cùng y phục các lọai lụa thải, đoạn
có phân biệt.” Minh
Thực Lục: Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3, trang 89).
Tháng
10 [1/11-29/11/1472], định hệ thống đo đạc ruộng đất,
mẫu, sào, thước. Cho người Chiêm Thành sống riêng; quan chức và dân
chúng không được chứa chấp. Tháng 11 [30/11-29/12/1472], ban điều lệnh
đi đánh giặc miền núi:
“Đặt
mức sào, thước. Hạ lệnh rằng ruộng đất mỗi mẫu 10 sào, mỗi sào 16 thước 5 tấc.
Cấm quan viên và dân chúng không được lén lút chứa giấu người Chiêm Thành.
Tháng
11, ban hành 19 điều lệnh đi đánh người Man.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 12, trang
74a.
Tháng
Giêng năm Hồng Đức thứ 4 [28/1-26/2/1473] (Minh Thành Hóa
năm thứ 9), Vua thân hành cày ruộng tịch điền. Qui định cấm rượu chè
bừa bãi; vợ chồng không được vô cớ ruồng bỏ, cưới hỏi cần hợp nghi
lễ:
“Vua
thân hành cày tịch điền và đốc suất các quan cày. Cử hành lễ Giao.
Cấm
tửu sắc. Ra sắc chỉ cho quan viên và trăm họ rằng:
‘Kể từ nay, trong nhà không làm cỗ thết khách
thì không được chè chén, người vợ không phạm tội thì không được ruồng bỏ. Kẻ
nào dám rượu chè bừa bãi, gia đạo không nghiêm, kẻ nào không có mối lái mà dám
vụng trộm tư thông thì phải trị tội”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 13, trang 1a.
Tháng
2 [ 27/2-27/3/1473] Vua trở về Thanh Hóa, ngược dòng
sông Mã bái yết nhà thờ bên nội, bên ngoại:
“Tháng
2, vua ngự về Tây Kinh bái yết lăng miếu. Vua đi thuyền nhẹ, ngược dòng sông Lỗi
[sông Mã] bái yết Nguyên miếu ở thành Tây Đô. Sau đó, đến từ đường Thuần Mậu ở
bên bờ sông (Từ đường này ở hương ấp của cha sinh ra thánh mẫu hoàng thái hậu
Ngô thị [Ngọc Dao] và mẹ là Đinh thị).” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 13, trang 1a.
Sát hạch các ngành nghề chuyên môn, như giáo
chức, thầy thuốc:
“Tháng 6 [25/6-24/7/1473] Thi giáo chức.
Phép thi: Kỳ thứ nhất, Tứ thư mỗi sách một đề: ngũ Kinh mỗi kinh một đề. Kỳ thứ
hai, một đề phú, thể Lý Bạch. Kỳ thứ ba, chế, chiếu, biểu, mỗi thể loại một đề…
Mùa
thu, tháng 7 [25/7-23/8/1473], thi y, đề gồm 4 môn.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 13, trang
2a.
Ngày 22 tháng 4 năm Hồng Đức thứ 5 [7/5/1474] (Minh
Thành Hóa năm thứ 10), Ban sắc chỉ cho những người bị tội lưu đày, được
nhập ngũ vào các vệ đồn trú tại vùng đất mới chiếm từ Chiêm
Thành:
“Mùa
hạ, tháng 4, ngày 22, ra sắc chỉ rằng: Tù nhân bị tội lưu, ở châu gần thì sung
làm quân vệ Thăng Hoa [Quảng Nam], ở châu ngoài thì sung làm quân vệ Tư Nghĩa
[Quảng Ngãi], ở châu xa thì sung làm quân vệ Hoài Nhân [Bình Định], những kẻ
được tha tội chết cũng sung làm quân vệ Hoài Nhân.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 13, trang
4a.
Ngày 16 tháng 6 [29/6/1474], ra sắc lệnh khuyến
khích các bậc trung nghĩa bằng cách tìm một người cháu, hoặc người
trong họ, giao cho chức quan tượng trưng, để lo việc cúng tế:
“Trung
thần nghĩa sĩ như Lê Phụ Trần [danh tướng thời Vua Trần Thái Tông], Trần
Khát Chân [3] triều trước, Đào Biểu [4] triều này; quan phụ trách và quan phủ
huyện tìm lấy một người cháu nội, hay cháu gọi bằng chú bác của các vị đó, xét
thực tâu lên sẽ trao cho một chức nhàn tản. Nếu không có cháu thì mới cho một
người thân thuộc được miễn quân dịch và thuế khóa để coi việc thờ cúng.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 13, trang
4b.
Bấy giờ tại vùng biên giới phía bắc, người
Trung Quốc thường sang cướp phá; triều đình ta chủ trương phản ứng
mạnh, đuổi đến tận gốc. Xứ Lôi Châu thuộc Vân Nam mang quân cướp bóc
tại Tuyên Quang, phía ta huy động hàng vạn quân, vượt biên đánh phá,
khiến Vua Hiến Tông nhà Minh phải đích thân gửi chiếu thư phản đối.
Tại châu Bằng Tường, Quảng Tây; bọn Sơn Man sang cướp dọc biên giới
Lạng Sơn; Vua ban qui định chinh man 10 điều, sai quân đi đánh:
“Ngày 5 tháng 8 năm Thành Hóa thứ 10 [
15/9/1474]. Sắc dụ Quốc vương An Nam Lê Hạo chớ coi thường điều động quân địa
phương làm kinh nhiễu nơi biên cảnh. Lúc bấy giờ các quan trấn thủ tại Vân Nam
tâu Lôi Châu thuộc phủ Quảng Nam [5] tiếp giáp với các xứ Tuyên Quang của An
Nam. Nay xưng rằng một số quân dân tụ tập cướp bóc, An Nam điều quân 10.000 người
vượt biên giới tấn công và quấy nhiễu các trại biên giới, làm nhân dân kinh sợ
tán loạn.
Thiên
tử bèn xuống chiếu rằng:
‘Nay
được quan Trấn thủ và Tổng binh tâu rằng người châu Bảo Lạc, vệ Tuyên Quang
xưng rằng bọn quân dân Hoàng Chương Mã náo động, rồi điều binh truy bắt vượt
quá biên giới hai phủ Quảng Nam, Trấn An; nhân đó đánh cướp trại biên giới,
kinh hãi nhân dân chạy tán loạn, đã sai quan phủ dụ trở về. Trẫm cho rằng quân
gian cướp bóc, pháp luật không dung được; nhưng vượt biên giới làm điều trái
ngược lý, cũng đáng răn. Nay các quan Trấn thủ, Tổng binh Lưỡng Quảng, Vân Nam,
cùng Đốc đồng Tam ty mỗi người có bổn phận giữ biên cảnh không để sai lầm. Nếu
gặp bọn giặc này, bắt đến biên giới đưa cho nước ngươi, không được dung thứ che
dấu. Vương hãy thể theo ý Trẫm, càng răn đe các châu vệ Bảo Lạc, Tuyên Quang bắt
gấp bọn giặc này làm yên địa phương, không được điều động lính Di vượt biên giới,
xâm nhiễu làm kinh sợ nhân dân; để sinh dân hai bên được an cư, không còn hậu
hoạn. Vương hãy khâm thừa chỉ dụ, không để quên nhãng.” Minh Thực Lục: Quan hệ Trung Quốc Việt
Nam, tập 3, trang 91.
“Tháng 9 [11/10-9/11/1474], mùa thu. Mộ
quân đi đánh Sơn Man. Trước đây, Sơn Man ở châu Bằng Tường nhà Minh lấn cướp dọc
biên giới Lạng Sơn, nhà vua định mệnh “chinh man” gồm 10 điều, sai quân đi
đánh, đuổi ra ngoài quan ải. Đến đây, Sơn Man lại quấy rối nơi biên cảnh, nhà
vua cho chiêu mộ quân và dân, người nào tình nguyện tùng chinh, thì tháng 10 sẽ
xuất phát.” Cương
Mục, Chính Biên, Quyển 23.
Tháng 10 [10/11-8/12/1474], triều đình ta cử 2 sứ
bộ sang nhà Minh. Sứ bộ Lê Hoằng Dục đảm trách triều cống; Nghiên
Nhân Thọ trình bày việc nước Chiêm Thành nội loạn đến tan rã. Riêng
phía nhà Minh, vào tháng Chạp sai sứ giả đến Chiêm Thành mang sắc
phong cho Bàn La Trà Duyệt. Khi đến cảng Tân Châu, Bình Định; hay tin
nước này bị An Nam chiếm. Tiếp tục hải hành theo phía nam, thì được
biết Bàn La Trà Duyệt đã bị An Nam bắt:
“Mùa
đông, tháng 10, sai sứ sang nhà Minh. Bọn Lê Hoằng Dục, Nguyễn Đôn Phục, Ngô
Lôi nộp cống hằng năm; bọn Nghiên Nhân Thọ, Nguyễn Đình Mỹ tâu việc Chiêm Thành
tan vỡ, quấy nhiễu biên giới.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 13, trang 5b.
“Ngày
14 tháng 12 năm Thành Hóa thứ 10 [ 21/1/1475]. Công khoa Cấp sự trung Trần Tuấn
đi sứ Chiêm Thành không vào được, bèn nạp trở lại những thứ đã mang đi như chiếu
sắc, ấn mạ vàng bạc, các vật như lụa, đoạn.
Bọn Tuấn đi sứ Chiêm Thành để phong cho Quốc
vương Bàn La Trà Duyệt, khi hàng hải đến cảng Tân Châu [Bình Định], Chiêm
Thành; quân phòng thủ từ chối không cho vào, người Thông dịch cho biết đất này
đã bị An Nam chiếm, còn Quốc vương Chiêm Thành tỵ nạn tại Linh Sơn. Khi đến
Linh Sơn thì được biết cả nhà Bàn La Trà Duyệt bị An Nam bắt và đất Chiêm Thành
bị đổi tên thành châu Giao Nam. Bọn Tuấn không dám ghé vào; nhưng thuyền chở
hàng hóa tư, cùng nhiều thương nhân, nên giả lấy cớ bị gió bão rồi hàng hải tiếp
đến Mãn Thứ Gia[6] buôn bán, lại dụ Vương nước này sai sứ đến triều cống. Đến
nay trở về tâu đầy đủ việc An Nam chiếm cứ Chiêm Thành, cùng việc Quốc vương
Mãn Thứ Gia cung cấp thức ăn và các nhu yếu phẩm khác, đối đãi lễ nghi rất đầy
đủ.
Sự
việc được đưa xuống cơ quan hữu trách, bộ Lễ tâu nên đợi Sứ thần Mãn Thứ Gia nhập
cống, lúc trở về giáng sắc khen thưởng Vương nước này. Bộ Binh cũng tâu nước An
Nam cậy mạnh, thôn tính nước được triều đình phong tước, sự việc quan hệ thật
không nhỏ, nên giao cho các Công Khanh bàn luận một cách rộng rãi. Lúc đó bọn
Anh quốc công Trương Mậu tâu rằng An Nam cường bạo vốn nên hài tội thảo phạt;
nhưng Đế vương đối với Di địch lấy bất trị để trị; nay chưa biết được nguyên do
Chiêm Thành diệt vong, không nên khinh động. Chờ năm sau vào kỳ An Nam triều cống,
đợi Bồi thần đến, sai Thông dịch đem việc này ra hỏi, mới bắt đầu khu xử. Lại
lưu ý thêm Vân Nam, Quảng Tây, cùng Quỳnh, Liêm, Quảng Đông tiếp giáp với đất
này nên ra lệnh cho các quan Trấn thủ, Tổng binh đôn đốc thuộc cấp cố thủ để đề
phòng xâm lấn.
Thiên
tử đều chấp thuận”. Minh
Thực Lục: Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3, trang 92.
Tháng giêng năm Hồng Đức thứ 6 (6/2-6/3/1475) (Minh
Thành Hóa năm thứ 11), Trấn thủ thái giám Tiền Năng sai Chỉ huy sứ
Quách Cảnh từ Vân Nam, theo đường sông Thao đến nước ta, được triều
đình đón tiếp, trao đổi thơ xướng họa. Sau đó triều đình ta cho áp
giải tù binh người Long Châu, Quảng Tây, trở về nước qua đường Vân Nam.
Việc này chứng tỏ triều đình ta bất bình với nhà cầm quyền Quảng
Tây về vấn đề biên giới, nên không muốn hợp tác. Tuy nhiên triều Minh,
chiếu theo truyền thống, coi Quảng Tây là con đường ngoại giao duy nhất
qua lại giữa hai nước, nên từ chối:
“Mùa
xuân, tháng Giêng, nhà Minh sai Kim ngô vệ chỉ huy sứ Quách Cảnh sang đuổi bắt
những kẻ chạy trốn. Cảnh đi đường sông Thao đến. Khi Cảnh về, vua sai Thái phó
Kỳ quận công Lê Niệm, Lại bộ thượng thư Hoàng Nhân Thiêm, Binh bộ thượng thư
Đào Tuấn, Hàn lâm viện thị độc kiêm Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung, Đông
các hiệu thư Đỗ Nhuận, Quách Đình Bảo, Hàn lâm viện thị thư Vũ Kiệt và Sử quan
tu soạn Ngô Sĩ Liên làm thơ. Vua viết bài tự để tiễn Cảnh. Bài tự đề là Thiên
Nam đông chủ Đạo Am tự.”[7] Toàn
Thư, Bản Kỷ,
quyển
13, trang 5b.
“Ngày 10 tháng 5 năm Thành Hóa thứ 11 [
13/6/1475]. Sắc dụ bọn quan Tổng binh Vân Nam Kiềm quốc công Mộc Tông gửi
văn thư hiểu dụ Quốc vương An Nam Lê Hạo. Trước đó Trấn thủ Thái giám Tiền Năng
lệnh Chỉ huy Quách Cảnh mang sắc đến An Nam, không do đường cũ Quảng Tây, mà đi
từ Vân Nam. Rồi nước này lại sai Bồi thần Hà Tuyên mang sớ cùng lấy danh nghĩa
giải tống phạm nhân đến biên giới, rồi mượn đường Vân Nam tới kinh đô, đòi hỏi
600 tên phu. Chúng gửi văn thư cho Tổng binh Mộc Tông, rồi Tông lại đưa văn thư
trình lên.
Sự
việc đưa xuống dưới xét, bộ Binh bàn rằng:
‘Từ
thời tổ tông đến nay chưa cho phép người Giao dùng đường Vân Nam đi cống, nay
muốn giải tù phạm theo đường đó, theo lễ không chấp nhận được. Xin bọn Tông gửi
văn thư hiểu dụ nước này rằng tù nhân giải đến, vốn thổ dân người Long Châu,
thuộc hạt Quảng Tây. Vậy nên giải đến Quảng Tây giam giữ, để tâu xin trừng trị;
không cần phải mượn đường, huy động dân chúng, giải theo đường dài đến kinh đô.
Vẫn ra lệnh Tông luyện binh giữ vững bờ cõi, để đề phòng chuyện bất trắc xẩy
ra.’
Thiên
tử chấp nhận. Con đường triều cống tại An Nam vốn từ Quảng Tây. Nay Tiền Năng
giao thiệp với An Nam, họ muốn đi từ Vân Nam để tránh mối oán tự Long Châu.” Minh Thực Lục: Quan hệ Trung Quốc Việt
Nam, tập 3, trang 94.
Theo lệ thi Hội dưới triều Lê, cứ 3 năm mở một
khoa; vào năm Hồng Đức thứ 3 [1472], lấy đậu 26 Tiến sĩ. Tháng 3 năm
nay [6/4-4/5/1475] mở thi Hội lấy trúng cách 43 người. Ngày 11 tháng 5
[14/6/1475] vào thi Đình, lấy 3 Tiến sĩ đệ nhất giáp; 13 Tiến sĩ đệ
nhị giáp, và 27 Tiến sĩ đệ tam giáp:
“Tháng
3, tổ chức thi hội cho các cử nhân trong nước. Bấy giờ, có 3200 người dự thi. Lấy
đỗ bọn Cao Quýnh 43 người. Phép thi khoa ấy:
Kỳ thứ nhất, về Tứ Thư: Luận Ngữ 3 đề, Mạnh Tử
4 đề, Trung Dung 1 đề, cộng là 8 đề. Người thi tự chọn 4 đề mà làm, không được
thiếu. Về Ngũ Kinh, mỗi kinh 3 đề, riêng Xuân Thu 2 đề.
Kỳ
thứ hai, thơ và phú mỗi loại một bài. Thơ dùng thể Đường luật, phú dùng thể Lý
Bạch.
Kỳ
thứ ba, chiếu, chế, biểu mỗi thể loại một bài.
Kỳ
thứ tư, sách vấn, đầu đề văn sách hỏi về ý nghĩa dị đồng của kinh, sử và nội
dung về thao lược của tướng soái.
Mùa hạ, tháng 5, ngày 11, vua ngự điện Kính
Thiên, thân ra đề văn sách, hỏi về đạo vua tôi ngày xưa. Sai Quang tiến trấn quốc
thượng tướng quân phò mã đô úy Đông quân đô đốc phủ tả đô đốc Đoan Vũ bá Trịnh
Công Lộ và Lại bộ thượng thư Hoàng Nhân Thiêm làm đề điệu; Thái tử thiếu bảo Ngự
sử đài đô ngự sử Trần Phong và Bình khoa đô cấp sự trung Phí Bá Khang làm giám
thí; Hàn lâm viện thị độc kiêm Đông các hiệu thư Đỗ Nhuận, Quách Đình Bảo làm độc
quyển.
Ban
cho ba người: Vũ Tuấn Chiêu, Ông Nghĩa Đạt, Cao Quýnh đỗ tiến sĩ cập cập đệ, bọn
Phạm Xán 13 người đỗ tiến sĩ xuất thân, bọn Đỗ Vinh 27 người đỗ đồng tiến sĩ xuất
thân.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 13, trang 6a.
Tháng
10 năm ngoái [10/11-8/12/1474],
triều đình ta cử sứ bộ Lê Hoằng Dục sang nhà Minh triều cống. Tháng
8 năm nay tới nơi, được ban yến, thưởng y phục; cùng nhận quà gồm các
loại lụa, gấm, đoạn do Vua Minh gửi cho Vua nước ta. Vào cuối tháng 8,
trước khi Hoằng Dục trở về nước, Vua nhà Minh lại gửi cho Vua ta sắc
dụ về vấn đề Chiêm Thành. Lời lẽ trong sắc cũng không có thái độ
quá quyết liệt, nói rằng hai phía trình bày tương phản nhau, không thể
xác quyết sự phải trái; chỉ yêu cầu nhà Vua trả lại người và đất
cho Chiêm Thành:
“Ngày 21 tháng 8 năm Thành Hóa thứ 11
[20/9/1475]. Quốc vương An Nam Lê Hạo sai bọn Bồi thần Lê Hoằng Dục đến
dâng biểu và triều cống các vật như vàng, bạc, khí mãnh. Ban yến cùng áo dệt
kim, lụa, đọan có sai biệt. Lại dùng lụa, đoạn, gấm có hoa văn giao cho bọn Hoằng
Dục mang về ban cho Vương nước này.” Minh Thực Lục: Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3, trang 95.
“Ngày 25 tháng 8 năm Thành Hóa thứ 11 [24/9/1475]. Quốc vương An Nam Lê Hạo tâu:
“Năm
trước nhân Quốc vương Chiêm Thành Bàn La Trà Toàn xâm phạm đạo Hóa Châu, bị người
em là Bàn La Trà Toại giết. Toại tự lập lên làm vua, sắp xin cầu phong; lại bị
con Bàn La Trà Duyệt là Trà Chất Đài Lai giết, từ đó nước trong nước này loạn lạc
nỗi lên, không có một ngày yên ỗn. Việc đó không phải là lỗi của nước thần. Nay
tuân theo chỉ dụ của Thiên tử dẹp binh đao, hòa mục với lân bang; số người nước
này bị bắt gồm 740 trai gái đều cho trở về nước.”
Đưa lời tâu xuống dưới, bộ Binh trình rằng:
“Lời
của Hạo sơ lược, không nói đến việc xâm chiếm Chiêm Thành; so với lời tâu của bọn
Hữu Cấp sự trung Trần Tuấn thì không giống nhau; thực tình hoặc gian trá không
quyết được.”
Thiên tử nhân Bồi thần Lê Hoằng Dục về nước bèn ban sắc
dụ Hạo rằng:
“Trước
đây nhân Bàn La Trà Duyệt tâu rằng Vương nước này là Bàn La Trà Toàn bị nước
ngươi bắt, Chiêm Thành hiện nay không có chủ, nên đến xin phong tước. Trẫm thể
theo đức hiếu sinh của trời đất, chấp nhận lời trần tình, sai sứ đến phong. Đến
lúc sứ trở về tâu rằng đất nước Chiêm Thành quả bị nước ngươi chiếm đọat, đổi
thành châu ấp. Trẫm nghi nhưng chưa tin, nay được ngươi tâu rõ ràng rằng Chiêm
Thành dùng binh gây oán, xâm nhiễu biên cảnh lân bang, đến nỗi bản thân chết,
nước bị phá; tất cả đều tự gây ra. Sự việc chưa rõ ràng, nhưng lý có thể như vậy;
huống lời và ý của Vương khẩn khoản, chắc không phải dùng lời lẽ để che dấu lỗi
lầm. Nhưng Chiêm Thành là nước truyền từ lâu đời, trước kia há không có một lực
lượng nào mạnh có sức thôn tính nước này, nhưng sử sách chưa từng nghe, vậy bài
học được mất có thể thấy được. Nay nếu nước này thình lình bị tiêu diệt, không
những trái với chiếu chỉ của triều đình; mà lại còn e bị các nước Phiên tại hải
ngoại sinh nghi sợ, rồi gây sự tranh dành, như vậy đối với Vương có lợi ư!
Sắc
đến Vương nên sửa đổi, cho người trong họ vua Chiêm cùng dân chúng trở về, khôi
phục đất đai, để cho không tuyệt nòi giống. Làm được vậy thì việc nối dòng bị đứt,
kính trời thờ nước lớn của Vương vẹn cả hai đường. Vương hãy gắng cho được.” Minh Thực Lục: Quan hệ Trung Quốc Việt
Nam, tập 3, trang 95.
Tháng 2 năm Hồng Đức thứ 7 [1476] (Minh Thành Hóa năm
thứ 12), Vua trở về Lam Kinh. Đến cửa biển Linh Trường; tức Lạch
Trường, thuộc huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa; nhân chiêm ngưỡng hang núi kỳ
vĩ, bèn cảm hứng làm một bài tự và thơ Đường luật:
“Ngày
16 [11/3/1476,
Catalog of Lunar Eclipses ghi 10/03/1476, có lẽ vì chệch múi giờ, nên chậm 1
ngày], nguyệt thực toàn phần. Vua ngự về Lam Kinh.
Ngày
22 [17/3/1476],
vua xuất phát từ Tây Kinh, đi thuyền nhẹ ra cửa Linh Trường, làm thơ Linh Trường
hải khẩu và bài tự. Bài tự viết:
‘Nhìn
non ngắm nước là để ngụ cái thú của người thân, bậc trí. Bên bờ biển, toàn là
dãy núi xanh cao vút, những ngọn núi dựng đứng ở cửa biển, hình dáng lại càng lạ
hơn. Cái hang dưới chân núi, ăn sâu mãi vào trong, thăm thẳm khôn lường, tương
truyền đó là miệng một con rồng. Bên ngoài miệng rồng lại có tảng đá, có hình
thể rất lạ, tương truyền đó là mũi rồng. Ở dưới mũi rồng, lại có một tảng đá rất
tròn, rất đẹp, tương truyền đó là hạt châu dưới hàm con rồng. Đá lớn nhô ra lõm
vào nhiều vẻ, chổ dày chổ thưa, nhiều không kể xiết, tương truyền đó là bộ râu
rồng.’
Vua
bỏ thuyền lên bờ, đi bộ đến đầu núi, bỗng nảy hứng thơ bèn viết 56 chữ [thơ
Đường luật, 8 câu, 7 chữ] để ghi lại.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 13, trang
8a.
Ngày
16 tháng 6 [6/7/1476],
xuống chiếu bắt Cung Vương Khắc Xương, vì Khắc Xương ngầm mưu việc đại nghịch.
Đến ngày mồng 6, tháng 8 [24/8/1476], Khắc Xương ốm chết:
“Cung vương, con thứ ba của Lê Thái Tông, và
là thứ huynh nhà vua. Vương tính tình nhã nhặn, đạm bạc, đồ mặc và đồ dùng đều
sẻn nhặt, có tiết độ, giữ mình kính cẩn như học trò. Năm Đại Bảo thứ 2 (1441),
bắt đầu được phong là Tân Bình vương, đến lúc Nghi Dân cướp ngôi, đổi phong là
Cung vương. Cuối năm Diên Ninh (1454-1459), sau khi đã truất ngôi Nghi Dân, đại
thần là bọn Lê Lăng muốn rước về lập làm vua, nhưng Cung vương cố ý từ chối, đại
thần bèn rước lập nhà vua. Nhà vua nghe được việc này, có ý không bằng lòng.
Sau khi Lê Lăng đã bị giết, nhà vua đối với Cung vương vẫn đem lòng ngờ ghét. Đến
nay, có người tố cáo Cung vương mưu làm việc phản nghịch, nhà vua hạ chiếu bắt
để trị tội, Cung vương vì lo sợ rồi chết.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 23.
Ngày 16 tháng 8 [3/9/1476] có nguyệt thực toàn phần.
Năm ngoái nhà Minh lập Hoàng thái tử, bèn cử
sứ bộ sang Triều Tiên và nước ta báo tin. Vào tháng 7 năm nay, Sứ
thần đem sắc thư đến nước ta; kèm với những vật đưa tặng. Tháng 10,
triều đình cử 3 sứ bộ sang triều Minh; thứ nhất mừng lập Hoàng thái
tử; thứ hai, tạ ơn ban vóc lụa; thứ ba, trần tình về việc Chiêm
Thành:
“Ngày 26 tháng 11 năm Thành Hóa thứ 11
[23/12/1475]. Do việc sách lập Hoàng Thái tử, sai Lang trung bộ Hộ Kỳ Thuận,
Lang trung bộ Lễ Nhạc Chương làm Chánh sứ; Tả ty phó Trương Cần, Hành nhân
Trương Đình Cương thuộc ty Hành nhân làm Phó sứ mang chiếu thư đến Triều Tiên,
An Nam tuyên bố việc này. Ban cho các Vương, cùng Phi lụa thải, đoạn; gấm hoa
văn, có phân biệt.” Minh
Thực Lục: Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 3, trang 96.
“Mùa thu, tháng 7, ngày 27[16/8/1476],
nhà Minh sai chánh sứ Lễ bộ lang trung Nhạc Chương, phó sứ Hành nhân Trương
Đình Cương mang sắc thư sang báo việc lập Hoàng thái tử và ban vóc lụa…
Mùa
đông, tháng 10, ngày [15/11/1476], sai sứ sang nhà Minh: Bùi Sơn, Vương Khắc
Thuật, Chử Phong mừng lập Hoàng thái tử; Lê Tiến, Ông Nghĩa Đạt tạ ơn ban vóc lụa.
Nguyễn Tế tâu việc địa phương Chiêm Thành.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 13, trang
9b.
*
GHI CHÚ:
[1]
Bằng Tường: Nay thuộc huyện Bằng Tường, tỉnh Quảng Tây, sát ải Nam Quan.
[2]
Châu Khâm: Thuộc tỉnh Quảng Tây, vị trí giáp với tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam.
[3]
Trần Khát Chân: Người làng Khả Lãng, huyện Vĩnh Lộc, làm đại tướng quân thời Trần
Thuận Tông, bị Hồ Quý Ly giết, xem Trần Thiếu đế, năm Kiến Tân thứ 2 [1399].
[4]
Đào Biểu: làm chức Nội nhân thị hậu phó chưởng, chết theo Nhân Tông trong loạn
Nghi Dân [1459].
[5]
Quảng Nam: Hiện nay còn huyện Quảng Nam, thuộc Văn Sơn Tráng Tộc Miêu Tộc Tự trị
Khu, tỉnh Vân Nam; gần biên giới Việt Nam.
[6]
Mãn Thứ Gia: tức Melaka, một tiểu bang của nước Mã Lai.
[7]
Thiên Nam động chủ và Đạo Am đều là tên hiệu của Vua Lê Thánh Tông Lê Thánh
Tông.
Hồ Bạch Thảo
*
Nguồn:
https://nghiencuuquocte.org/2023/10/21/dai-viet-duoi-thoi-vua-le-thanh-tong-p6/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét