BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 13 tháng 8, 2021

ĐẠO THƠ HAY KHÔNG ĐẠO THƠ - Châu Thạch



Vừa qua đọc trên trang https://tranmygiong.blogspot.com tôi thấy có bài viết của nhà thơ Trần Mạnh Hảo phản biện về việc ông bị tác giả Văn Chính vu oan cho mình là đã đạo thơ 6 lần.  Nói chung tất cả mấy vị nầy đều quá xa lạ đối với Châu Thạch tôi. Thế nhưng,vì sự tò mò nên tôi tìm hiểu thử sự thật có đạo thơ hay không có đạo thơ, hay là chỉ vì thù ghét nên vu oan cho nhau. 
 
Để không mất thì giờ bạn đọc, tôi xin vào đề ngay những gì tôi đã đọc, tìm hiểu, đồng thời xin góp thêm vài  ý chủ quan của tôi:
 
1-TÁC GIẢ VĂN CHÍNH TỐ TRẦN MẠNH HẢO ĐẠO THƠ CỦA NGUYỄN DU LẦN THỨ NHẤT
 
Tác giả Văn Chính viết: Ở bài “Con cò tập viết”:
 
Trời in đáy nước 
Cò ngỡ mực xanh
Dùng mỏ chấm mực
Viết mãi không thành 
 
Thực ra, tứ của bài thơ là thuổng từ bức tranh dân gian Lý ngư vọng nguyệt cơ, chỉ có “Trời in đáy nước” là thuổng từ câu “Long lanh đáy nước in trời” của cụ Nguyễn Du.”
 
CHÂU THẠCH TÌM HIỂU NHƯ SAU: 
 
“Lý ngư vọng nguyệt” hay “cá chép trông trăng” là một trong những bức tranh đẹp nhất cả nghệ thuật tranh dân gian Việt Nam. Những con cá chép trong tranh không tìm về giá trị đích thực, mà lại chỉ nhìn vào những hư ảo của cuộc đời.  Hàm nghĩa của bức tranh muốn nhắn gửi thế nhân: Đừng nhìn vào những hư ảo trong cuộc đời mà hãy tìm về những giá trị đích thực, tìm về sự hoàn thiện, viên mãn thật sự của con người.  
 
Ý KIẾN CHỦ QUAN CỦA CHÂU THẠCH: 
 
Hai câu thơ đầu trong bài Con Cò Tập Viết “Trời in đáy nước/Cò ngỡ mực xanh” của Trần Mạnh Hảo tả bầu trời xanh soi mình xuống đáy nước là “hình ảnh phổ biến một cách rộng khắp, dùng thường trong ngôn ngữ”.  Hàng vạn nhà thơ từ cổ chí kim, từ em học sinh cấp 1 tập làm văn trong lớp đến cụ Nguyễn Du đều có thể viết vậy.  Do đó bất kỳ ai cũng có thể dùng hình ảnh trên cho thơ văn của mình mà không thể gọi là ai bắt chước ai cả. 
 
Hai câu thơ  sau “Dùng mỏ chấm mực/Viết mãi không thành”  ý thơ siêu hơn tranh “Lý Ngư Vọng Nguyệt”. Tranh Lý Ngư Vọng Nguyệt là cá chép ngắm trăng chỉ diễn đạt cái nhìn hư ảo, còn bài thơ Con Cò Tập Viết diễn tả một hành động vô ích của những kẻ ngu muội. Tôi nghĩ cả hai ý thơ và hình ảnh giữa Lý Ngư Vọng Nguyệt  Con Cò  Tập Viết khác nhau hoàn toàn. Cho dầu nhà thơ Trần Mạnh Hảo có nhìn bức tranh kia mà nẩy sinh ra ý thơ nầy cũng là một sự sáng tạo đáng khâm phục, không thể quy chụp là đạo ý của tranh được.
 
2-TÁC GIẢ VĂN CHÍNH TỐ TRẦN MẠNH HẢO ĐẠO THƠ CỦA NGUYỄN DU LẦN THỨ HAI:
 
Tác giả Văn Chính viết: “Trần Mạnh Hảo lấy câu của cụ Nguyễn Du viết trong bài ‘Phản chiêu hồn’ ” 
 
Hậu thế nhân gian giai Thượng Quan
Đại địa xứ xứ giai Mịch La,
 
[Ðời sau đều là Thượng Quan
Khắp mặt đất đều là sông Mịch La]
 
để chế thành một câu trong bài “Nguyễn Trãi trước giờ tru di”:
 
 “Ta thương xã tắc không mất về tay giặc
Lại mất về tay bọn nịnh thần
Triều đình ai cũng là Lê Sát”
 
CHÂU THẠCH TÌM HIỂU NHƯ SAU:
 
Phản Chiêu Hồn là bài thơ chữ Hán thể cổ thi của Nguyễn Du trong tập Bắc Hành Tạp Lục, sáng tác trong thời kỳ đi sứ sang Trung Quốc. Trong bài Phản Chiêu Hồn có mấy câu thơ:
 
“Hậu thế nhân gian giai Thượng Quan
Đại địa xứ xứ giai Mịch La
Ngư long bất thực, sài hổ thực
Hồn hề! Hồn hề! Nại hồn hà?”
 
 Dịch là :
 
“Thượng Quan thời buổi ai ai,
Khắp trên đất rộng sông dài Mịch La!
Cá rồng nuốt, sói hùm tha,
Hồn ơi! Hồn hỡi! Hồn mà làm sao?”
 
Trong khổ thơ trên có có các chữ Thượng Quan và Mịch La? Tương truyền Khuất Nguyên (khoảng 340 - 278 trước công nguyên) làm quan đại phu nước Sở bị Thượng Quan Ngân Thượng gièm pha khiến cho Sở Hoài Vương ruồng bỏ, phải lưu đày xuống Giang Nam. Uất ức, tủi nhục, Khuất Nguyên làm bài phú Ly Tao rồi gieo mình xuống sông Mịch La tự vẫn. Tống Ngọc là nhà thơ cùng thời với Khuất Nguyên đã làm bài Chiêu hồn để gọi hồn Khuất Nguyên về dương gian. Nguyễn Du chống lại quan điểm đó, nên đã làm bài Phản chiêu hồn (Chống lại bài chiêu hồn). Ông cho rằng: nếu hồn Khuất Nguyên có về dương gian thì cũng chẳng có gì tốt đẹp.
 
Bây giờ đề cập đến bài thơ “Nguyễn Trải Trước Giờ Tru Di” của Trần Mạnh Hảo. Tựa đề đã nói ý chính của bài thơ rồi. Bài thơ nầy được nhà phê bình thơ Vũ Bình Lục nhận xét như sau:  “Một bài thơ viết theo lối trực cảm, nhưng lại khéo mượn lời nhân vật trữ tình. Mà có lẽ cũng chỉ bằng cách ấy, mới có thể chuyển tải mạch tâm tư tình cảm của người viết một cách hữu hiệu”. Hai câu thơ mà tác giả Văn Chính tố họ Trần đạo thơ Nguyễn Du nằm trong khổ thơ nầy:
                     
“Ta thương xã tắc không mất về tay giặc                       
Lại mất về tay bọn nịnh thần                       
Triều đình ai cũng là Lê Sát *                       
Mắt thiên tử như Nam Hải đố ai lấp đầy giai nhân?                       
Luân thường đem gác gác bếp                       
Chỉ ba ông đầu rau nhìn thấy dân”
 
* Lê Sát là một trong những công thần khai quốc của hoàng triều Lê. Đến đời vua Lê Thái Tông bị ghét bỏ. Năm 1437, Lê Sát bị bãi chức, sau bắt tự tử tại nhà, vợ con gia sản đều bị tịch thu.
 
Ý KIẾN CHỦ QUAN CỦA CHÂU THẠCH:
 
Đoc mấy câu thơ trong Phản Chiêu Hồn của Nguyễn Du ta thấy nhà thơ khóc một triều đại mà quan quyền thoái hoa, xấu xa, xu ninh đã làm hại nhân tài. Nhà thơ đã lấy hình ảnh cá rồng là thứ hiền hòa thì lại nuốt mà sói hùm là thứ thú dữ thì lại tha, vậy thì “Hồn ơi! hồn ơi! hồn mà làm sao?” có nghĩa là gọi hồn Khuất Nguyên về cũng vô ích thôi, đâu giúp được gì cho xã tắc. 
 
Đọc mấy câu thơ trong bài “Nguyễn Trải Trước Giờ Tru Di” ta thấy Trần Mạnh Hảo viết về tâm trạng và nỗi đau của Nguyễn Trải, ông lo sợ VUA sẽ mù trước lẽ phải, quan quyền sẽ là bọn đầu rau, nịnh thần, đạo lý sẽ lu mờ như nơi xó bếp.  
 
Đem so hai đoạn thơ của Nguyễn Du và Trần Mạnh Hảo, ta thấy cái chủ đề na ná nhau vì  cả hai đều nói đến sự suy thoái của triều đình, đó chỉ là sự ngẫu nhiên mà hai tác giả đã khóc cho hai triều đại khác thời nhau mà thôi. Thế nhưng từ ngữ và tứ thơ trong hai đoạn thơ không có gì giống nhau cả. Vậy cho nên nói tác giả nầy lấy thơ của tác giả khác để “chế” lại thì không có chút gì hợp lý cả.
 
3 -TÁC GIẢ VĂN CHÍNH TỐ TRẦN MẠNH HẢO ĐẠO THƠ LÝ BẠCH: 
 
Văn Chính viết: “Trong bài ‘Tương tiến tửu’, Lý Bạch viết:
 
Nước sông Hoàng Hà chảy từ trên trời xuống,
Chảy ra đến biển không quay trở lại nữa. 
 
Trần Mạnh Hảo thuổng một câu chế thành câu khác trong bài “Mao Trạch Đông” của mình:
 
Người cầm con hồng vệ binh như cầm một tách trà
Hoàng Hà đỏ đổ từ trời như cắt tiết”
 
CHÂU THẠCH TÌM HIỂU:
 
Bài thơ Tương Tiến Tửu của Lý Bạch có những câu thơ mở đầu hay như sau:
 
Quân bất kiến:
Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi!
Hựu bất kiến:
Cao đường minh kính bi bạch phát,
Triêu như thanh ty, mộ thành tuyết.
Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,
Mạc sử kim tôn không đối nguyệt!
 
Dịch:
 
Anh không thấy:
Nước sông Hoàng Hà chảy từ trên trời xuống,
Chảy ra đến biển không quay trở lại nữa.
Anh lại không thấy:
Cha mẹ soi gương buồn nhìn tóc bạc,
Sáng còn như tơ đen mượt, chiều tối đã trắng như tuyết.
Đời người khi nào đắc ý nên tận tình vui sướng,
Đừng để chén rượu vàng cạn queo nhìn vầng trăng.
 
Bài thơ Mao Trạch Đông của Trần Mạnh Hảo có một khổ thơ như sau:
 
Máu Trung Hoa trắng rợn da ngựa
Cho thuỳ dương xoã hết tóc Đường Thi
Người mắc bệnh nghi mình là tượng
Cả Trung Hoa lên cơn nghiền lý tưởng
Người cầm cơn hồng vệ binh như cầm một tách trà
Hoàng Hà đỏ đổ từ trời như bị cắt tiết
 
Ý KIẾN CHỦ QUAN CỦA CHÂU THẠCH:
 
Đem đoạn thơ Tương Tiến Tửu so sánh với đoạn thơ Mao Trạch Đông ta thấy khác ý nhau hoàn toàn. Tương Tiến Tửu nói về sự phôi pha cúa đời người, ngày tháng như nước sông Hoàng Hà trôi đi không quay lại, như tóc người già bạc đi trong ngày.  
 
Ngược lại bài thơ Mao Trạch Đông nói về nhân vật lịch sử Mao Trạch Đông, đã đưa một thế hệ Trung Hoa lao vào lý tưởng bệnh hoạn, thần tượng hóa họ Mao, kích động phong  trào hồng vệ binh dễ như cầm tách trà trên tay mà làm cho máu chảy như nước Hoàng Hà đỏ từ trời cao  đổ xuống. 
 
Về ý  câu thơ “Hoàng Hà đỏ đổ từ trời…” có đạo thơ Lý Bạch hay không thì nhà  thơ Trần Mạnh Hảo đã giải thích rằng: “Dân ca Hồ Nam thời Chiến quốc từng có câu: ‘Dương tử giang từ trời rót xuống’ trước câu thơ ‘Sông Hoàng hà từ trời chảy xuống’ 800 trăm năm”. 
 
Vậy theo Châu Thạch tôi, vì viết bài thơ về Mao Trạch Đông là nhân vật lịch sử của Trung Quốc nên nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã dùng một điển tích, một huyền thoại trong dân gian Trung Quốc, đó là điều xưa nay ai cũng có thể dùng để nhân mạnh ý thơ mình , nhất là trong các cảo thơm của các thi hào mà ngay nay ta học như Kim Vân Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm….Vậy việc nói nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã “thuổng một câu thơ  của Lý Bạch chế thành câu thơ mình” thì chỉ là một sự vu oan thôi. 
 
Cho dầu nhà thơ Trần Mạnh Hảo cón mượn cái ý thơ “Hoàng Hà chảy từ trời xuống” của Lý Bạch để đem vào thơ mình thì cũng  chỉ dùng một  điển cố, điển tích trong lịch sử Trung Hoa để làm cho thơ mình trở  nên sinh động và hàm xúc. Điều đó được cho phép. Ta thấy tuyện Kiều của Nguyễn Du là cả một sự tái tạo điển cố, điển tích mà trở nên toàn bích hơn nhiều so với nguyên tác.
 
4- KẾT LUẬN: 
 
 Tác giả Văn Chính  còn tố Trần Mạnh Hào đạo thơ của Nguyễn Bính, Trần Đăng Khoa và Truyện Ngụ Ngôn. Thế nhưng đọc những lời tố cáo nầy, Châu Thạch tôi thấy không thuyết phục  và không có gì hay, nếu mình viết thêm vào đây chỉ thêm dài,  làm đau mắt quý bạn đọc. Vì vậy tôi xin mạn phép ngưng lại sau sự tìm hiểu và ý kiến về 3 lời tố cáo trên.
 
Công bình mà nhận xét, thi thấy rằng những lời tố cáo của tác giả Văn Chính về thơ của Trần Mạnh Hảo cũng giống như là sự bới lông cố tìm vết. Khi đã bới lông cố tìm vết thì dầu thấy cái bớt hồng hay cái nốt ruồi hồng vẫn cho là xấu. Điều đó cũng giống như một người muốn vu oan vợ mình ngoại tình thì nhìn bất cứ đứa trẻ nào cũng thấy có nét giống vợ mình  để đem làm bằng chứng là vợ mình lấy trai.
 
Tôi chỉ là một con dế già thích gáy, thấy điều gì trái ý mình thì gáy, gáy hay hoặc gáy dỡ thì cũng đã gáy rồi. Xin nhận lãnh những lời khen hay những lời chê trách, xem đó đều là niềm vui của mình được giao lưu về văn thơ. Trân trọng.
                                       
                                                                                         Châu Thạch
 

1 nhận xét:

Bâng Khuâng nói...

XIN GÓP Ý
Hai câu thơ:
“Hựu bất kiến cao đường minh kính bi bạch phát
Triêu như thanh ti, mộ như tuyết.”
Không chỉ dịch như lời bác Châu Thạch dẫn:
“Anh lại không thấy:
Cha mẹ soi gương buồn nhìn tóc bạc,
Sáng còn như tơ đen mượt, chiều tối đã trắng như tuyết”.
“Cao đường” không chỉ hiểu theo nghĩa bóng là “cha mẹ” mà Lý Bạch dùng đúng theo nghĩa đen là “nhà cao”
Nên 2 câu thơ trên còn được dịch:
“Lại chẳng thấy sao: gương sáng trong nhà cao soi bật nỗi buồn tóc trắng
Mới khi sáng còn xanh như tơ, chiều đã như tuyết”