BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 6 tháng 2, 2025

MẸ LÀ XUÂN, HƯƠNG TẾT, HOA CỎ TÌNH XUÂN – Thơ Tịnh Bình


   


MẸ LÀ XUÂN...
 
Từ trong cổ tích bước ra
Vẫn là cô Tấm hiền hòa đấy thôi
Từ trong giấc ngủ đầu nôi
Giấc mơ thơ bé mẹ tôi dịu dàng
 
Ca dao ngày cũ vương mang
Cái cò cõng bóng xuân sang ngậm ngùi
Tảo tần héo hắt xuân tươi
Mẹ ngồi mặc cả nụ cười gió đông
 
Quanh năm buôn bán long đong
Đàn con thơ dại gánh gồng nặng vai
Nghe như tiếng gió thở dài
Mùa xuân của mẹ lạc ngoài xa xăm
 
Rẽ trời mùa én về thăm
Vui con chim hót một năm mới về
Bao la đất mẹ tình quê
Buộc vào nỗi nhớ triền đê cánh diều
 
Tháng Ba hoa gạo thắp chiều
Dáng quen bậu cửa đăm chiêu mẹ ngồi
Mẹ là xuân của riêng tôi
Bà tiên ông Bụt tinh khôi khoảng trời...
 

QUAN TÁI 關塞 – Theo Chiết tự chữ Hán



Truyện Kiều có câu:
 
Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
Một màu quan tái mấy mùa gió trăng.

QUAN TÁI là gì?
QUAN : Tức nơi cửa ải.
TÁI : Vùng đất xa xôi, ngoài biên giới.
QUAN TÁI là cửa ải đóng ở vùng biên giới xa xôi.
Nghĩa bóng: Chỉ sự xa xôi cách trở.
 
                                                                    Theo Chiết tự chữ Hán

Thứ Tư, 5 tháng 2, 2025

NHẠC SĨ LÊ UYÊN PHƯƠNG: VẪN CÒN TÌNH KHÚC CHO EM – Đàng Sa Long

 

Nhạc sĩ Lê Uyên Phương vĩnh biệt dương gian ở tuổi 58, vào ngày 29/6/1999. Một phần tư thế kỷ vắng bóng nhạc sĩ Lê Uyên Phương trên cõi đời, nhưng những sáng tác của ông như "Dạ khúc cho tình nhân", "Lời gọi chân mây", "Hãy ngồi xuống đây", "Vũng lầy của chúng ta", "Tình khúc cho em"... tiếp tục chinh phục giới mộ điệu. Đặc biệt, gắn liền với những tác phẩm Lê Uyên Phương chính là mối tình của ông với ca sĩ Lê Uyên.
 

TA VỚI NGƯỜI, MẦN THƠ, QUẢ (NHÂN), QUAY LƯNG, QUÊN VỀ, NỢ ÁO NỢ CƠM, SỐ CON RỆP, TƠ TẰM NHỆN - Thơ Chu Vương Miện


   


TA VỚI NGƯỜI
 
người thỉnh cho ta bông hồng nhỏ
chưa tiện quăng đi cầm nơi tay ?
độ rầy tháng 6 con nước cạn
thuyền bơi lam lũ bãi kinh lầy
nửa đuờng đành đoạn ôi quá dị
hoa hoét buổi giờ chỉ lấm tay
quăng đi bất tiện cầm quá ngặt
sáo trâu sáo sậu trộn loạn bầy ?
ta đang hấp hối nhưng chưa thoát
vô tình nhìn mãi gió đùa mây
lá vàng lẫn đỏ bay như sếu
mà ta xỉn mãi chặn cơn say
ta chả trách gì ? người không lỗi
đò bao nhiêu bến cặp tự do
ta đây cũng chỉ qua một bận
quá giang gặp lỡ một chuyến đò
đến đó ngừng chân rồi đi tiếp
theo giòng sông cạn đá lô nhô
mơi sau có ghé qua cửa tả
nhìn hoa tím ngắt rặng sầu đâu
 

BUỒN THAY NĂM NÀO CŨNG TẾT - Trần Vấn Lệ



Hôm nay không còn Ngày Tết, mứt, trà, kẹo, bánh... đều Sale!
Cô bé bán hàng cười tươi:  Mời anh, mời chị...ăn Tết!
 
Có người dừng chân... ngó miết - ngó cô con gái Bắc Kỳ!
Có người ngún nguẩy bỏ đi:  chỗ nào cũng Quân Giải Phóng!
 
Siêu Thị ở Mỹ thật rộng, nhiều người rộng lượng còn hơn!
"Ít gì cô ấy Việt Nam...Cái Tình Đồng Bào Trên Hết".
 
Hỏi thăm:  "Em qua Du Lịch, kết hợp bán Tết một tuần, ba tuần làm khách tha hương, ngắm nghía vui buồn Đất Khách!".
 
Nghe cô bé đáp thật thích -  Tết mà... không giận hờn đâu!
... nên có người dừng khá lâu, nên có người mua vài thứ...
 
Tôi mua chút Tình Lịch Sử.  Cô cầm lên trao và hôn.
Tôi cảm ơn cô. Quê Hương!  Tôi cảm ơn buồn bay mất...
 
*
Lịch Sử buồn tay ngồi lật... thấy vài giọt nước mắt khô!
Thôi mà... Chuyện gì cũng mơ!  Mơ hoài biết bao giờ tỉnh?
 
Tôi còn treo kia... áo Lính... bạc màu năm mươi năm chăng?
Tôi hỏi, không còn cố nhân... buồn thay Năm-Nào-Cũng-Tết!
 
                                                                                  Trần Vấn Lệ

NGẪU HỨNG ĐẦU XUÂN - Chùm thơ Đặng Xuân Xuyến


   


Gió Ngây Ngô
 
Nửa đêm em rủ đi dạo phố
Nại gió cạn Đông quẩn đến rồ
Mỉm cười, khẽ nhủ: sao mà ngộ
Nửa đêm gió lại quẩn ngây ngô...
 
Hà Nội, 04:23 Mồng 2 Tết Ất Tỵ
(Tức 30 tháng 01 năm 2025)
 
 
Em Đến Chơi Nhà
 
Em đến chơi nhà, mắt như hoa
Mang theo câu ví gửi làm quà
Miệng cười chúm chím, duyên duyên lạ
Em dán mùa Xuân thắm cả nhà!
 
Hà Nội, 12:28 Mồng 2 Tết Ất Tỵ
(Tức 30 tháng 01 năm 2025)
 
 
Ngẩn Ngơ Hội Làng
 
Gặp em giữa hội thành làng
Yếm đào dải thắm mơ màng nắng Xuân
Ờ kìa...
Gió cứ tần ngần
Dập dềnh để nắng quện chân
níu người
Em cười
 
bẽn lẽn mà tươi
Nắng xuân thèn thẹn
cho người ngẩn ngơ...
 
Hà Nội, 18:30 Mồng 2 Tết Ất Tỵ
(Tức 30 tháng 01 năm 2025)
 
                     Đặng Xuân Xuyến

Thứ Ba, 4 tháng 2, 2025

NỮ HOÀNG CLEOPATRA THÍCH ĂN DƯA KIỆU? – Trần Công Khanh


Kiệu nhà làm. Ảnh: OISHI NIPPON

"Tung tích" của món dưa kiệu trên thế giới nghi ngờ có từ thời nữ hoàng Cleopatra, ở Việt Nam có từ thời Hùng Vương.

Cleopatra, vị nữ hoàng xinh đẹp của xứ Ai Cập, người tình của J. Cesar, danh tướng La Mã, nổi tiếng thích ăn dưa muối. Nhưng lịch sử không nói dưa gì. Tôi ngờ rằng là dưa kiệu…
 
Những cây họ hành - những thứ thực vật ăn được - được phát hiện lâu đời nhất ở những vùng núi non Trung Á, trong đó dĩ nhiên có củ kiệu. Từ đó chúng lan truyền đi khắp thế giới. Hai nước có củ kiệu từ rất xửa xưa được sử sách nhắc tới là Ai Cập và Trung Quốc.
 
Dưa kiệu có từ bao giờ
 
Loài người biết làm dưa muối từ thời thượng cổ. Cách đây lối 9.000 năm, trước khi có sử chép bằng văn tự. Theo Jan Davison (tác giả sách Pickles, a Global History), Trung Hoa có quyền tuyên bố chính đáng là nơi khai sinh ra dưa muối, dựa trên các ký tự của họ. Những tác giả khác cho rằng nơi dưa muối "tu oa" chào đời là từ Lưỡng Hà giang. Luồng ý kiến này thật đáng ngờ, vì sau đó chúng có xu hướng "dĩ Âu vi trung".
 
Riêng BS Lê Văn Lân (nhà nghiên cứu phong tục Việt Nam) lại đặt vấn đề cần nêu ra để rộng đường tham khảo: "Tại sao gọi là dưa? Dưa không phải chỉ trái dưa mà chỉ phương pháp 'muối dưa'. Phải chăng từ 'dưa' của tiếng Việt đã sinh ra chữ 'Trư' của chữ Nho . Viết với bộ 'thảo' là rau cỏ , ở bên dưới có hình cái vại chứa nước (thủy) , tức là bỏ rau vào cái vại đựng nước".
 

CON DÂU CỦA VUA GỌI LÀ GÌ ? Theo KiếnThứcThúVị



Xưa nay đa phần chúng ta đều biết vợ của vua gọi là hoàng hậu, con trai vua gọi là hoàng tử, con gái của vua gọi là công chúa, con rể của vua gọi là phò mã nhưng con dâu của vua thì có lẽ ít người biết được gọi là gì.
 
Đây cũng là việc khá dễ hiểu. Trước đây các triều đại quân chủ phong kiến của ta cũng như Trung Hoa đều có quan niệm trọng nam khinh nữ. Phụ nữ thường sinh hoạt trong nhà, lo công việc nội trợ, sinh nuôi con cái, không được đi học,… hầu như họ không đóng một vai trò xã hội gì khiến họ ít được đề cập đến trong sinh hoạt xã hội. Vậy nên ngay cả khi họ là dâu của nhà vua, gọi họ là gì cũng ít được sách vở đề cập.

Con dâu của vua gọi là hoàng tức (皇媳).
Hoàng là một thành tố chỉ những gì thuộc về nhà vua, liên quan đến vua.
Tức là dạng tắt của tức phụ đã trở nên thông dụng, có nghĩa là con dâu.

Con rể của vua vốn được gọi là hoàng tế (皇婿, tế là rể). Từ đời Nguỵ, đời Tấn, chàng rể được phong làm làm phụ mã đô uý, gọi tắt là phụ mã, âm xưa là phò mã. Đây là một chức quan chuyên trách chuyện ngựa xe cho nhà vua, anh chàng hoàng tế được cái tên phò mã là nhờ ở chức này

Hoàng tức là tên gọi chung của dâu nhà vua. Chúng ta còn gặp từ ‘tức’ này trong thuật tử vi với cung ‘tử tức’ nói về con và dâu.
 
                                                                                          Sưu tầm
Theo KiếnThứcThúVị

Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2025

VŨ ĐINH (武丁), THIÊN ẤT (天乙) – Tranh dân gian Đông Hồ, Ung Chu

Chuyên mục nhằm thuyết minh các kí tự Hán và Nôm trên các tác phẩm tranh dân gian Việt Nam, giúp người Việt Nam hiện đại cảm thụ rõ hơn nội dung các bức tranh này. Tranh dân gian là các di sản Hán - Nôm có giá trị, có sức sống bền bỉ và độ tiếp cận rộng rãi trong dân chúng.


"Vũ Đinh" và "Thiên Ất" là cặp tranh Đông Hồ vẽ môn thần (thần giữ cửa), dùng để trấn giữ trừ tà.

VŨ ĐINH (tranh bên trái)
THIÊN ẤT (tranh bên phải)

Thiên Ất 天乙 tức là Thành Thang 成湯 - người sáng lập nhà Thương  trong lịch sử Trung Hoa, nên còn gọi là Thương Thang 商湯.

Vũ Đinh 武丁 là vị vua hơn 20 đời sau của nhà Thương  (có tài liệu ghi thứ 21, 22 hoặc 23), tương truyền là con trai của vị vua 1 đời trước đó là Tiểu Ất 小乙

Tiểu Ất nối ngôi người anh của mình là Tiểu Tân 小辛, Tiểu Tân nối ngôi người anh của mình là Bàn Canh 盘庚, Bàn Canh nối ngôi người anh của mình là Dương Giáp 陽甲...

Có thể thấy, các thuỵ hiệu của vua nhà Thương (và vợ của họ) trong sử sách Trung Hoa có chứa tên các can ("giáp - ất - bính - đinh - mậu - kỉ - canh - tân - nhâm - quý" 甲乙丙丁戊己庚辛壬癸), gắn với 10 ngày trong tuần ("tuần"  xưa 10 ngày, về sau do ảnh hưởng của Ki-tô giáo đi lễ vào các ngày Chúa nhật [Chủ nhật] nên đổi sang "tuần lễ" 7 ngày). Nghi thức cúng tế các vị vua này diễn ra vào ngày ứng với tên can trong thuỵ hiệu.

Vị vua cuối cùng của nhà Thương là Đế Tân 帝辛 con của vua Đế Ất 帝乙. Tương truyền, Chu Vũ Vương 周武王 (người sáng lập nhà Chu ) đã gọi Đế Tân là Trụ Vương 紂王 nghĩa là vị vua tàn ác bạo ngược. Theo truyền thuyết, vợ của Đế Tân là Đát Kỉ 妲己 (họ tính Kỉ  và họ thị Hữu Tô 有蘇) vốn là hồ li tinh hoá thành.
 
                                                                                              Ung Chu

NGÀY XUÂN LAN MAN CHUYỆN MAI: NHẤT CHI MAI (NGỰ SỬ MAI) – Nguyễn Xuân Diện


🌿 Ảnh Nhất Chi Mai ở phòng khách, 8h sáng Mùng 3 Tết Ất Tỵ (31.1.2025).
                      Bức thư pháp treo bên cạnh là hai câu thơ của Lưu Hành Giản: 
                      Ngã thường phẩm Giang mai - Chân chính hoa quân tử 
                      (Ta thường bình phẩm hoa mai ở Giang Nam - Thật đúng là quan Ngự sử các loài hoa). 
                      Nét bút tài hoa của Ân Xuyên Nguyễn Quang Thắng (Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

*
Hỡi khéo thay Mai!
Danh xưng Ngự sử truyền thanh bạch
Thoả chí nam nhi chiếm bảng xuân.
 
Đó là 3 câu thơ trong bài NON MAI, lời bài hát cổ nhất của Ca trù, tương truyền do Đức Tổ Ca trù Mãn Đường Hoa Công Chúa làm để ca ngợi tưởng nhớ chồng. Năm 2001, tôi may mắn tìm được hai văn bản chép bài Non mai trong sách Ca trù thể cách (AB.564) và Ca trù tạp lục (VHv. 2940) tại kho sách cổ Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
 

KINH THÀNH HUẾ ĐƯỢC VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN BẢO VỆ THẾ NÀO ?



Kinh thành Huế được khởi công xây dựng vào năm Gia Long thứ tư (30/4/1805). Sử xưa cho biết: Mặt bằng xây dựng kinh thành bao gồm trọn đô thành cũ thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, một phần phủ chính thời Nghĩa Vương Nguyễn Phúc Thái cùng đất 8 làm: Phú Xuân, Vạn Xuân, , Diễn Phái, Thế Lại, An Vân, An Hòa, An Mỹ và An Bửu.
 
Cùng với xây dựng một kinh thành rộng lớn, vững chãi, nhà Nguyễn đã tuyển chọn đội quân thiện chiến để bảo vệ vương triều trong một thời đại bị nhòm ngó, xâm lược.
 

CHẶNG ĐẦU TIÊN TRÊN SUỐT ĐƯỜNG XUÂN – Thơ Trần Vấn Lệ




Trái đất tròn... tròn như viên bi
lăn tới đầu non cuối biển về
nó hóa trái tim tròn rất đẹp
là em vừa chớp chớp đôi mi!
 
Thơ anh khai bút mừng em, đó!
mỗi chữ, em à, một nụ hoa...
ôm ấp mà thương tình mãi mãi
Lâu Đài Tình Ái em nguy nga!
 
Mình đi bên nhau về chân mây
anh hôn em hoài đôi chân mày...
đi hết biển trời, ta trở lại
đất liền - làng xóm - cánh cò bay...
 
Em ơi Quê Hương, Quê là Quê
Em ơi Hương thơm hoa cau nè!
Em áo dài hoa, hoa cúc nở
Mùa Xuân, Xuân Cúc đẹp thì khoe...
 
Mai sẽ Hạ hồng, Thu biếc biếc
rồi Đông sương giá vẫn băng trinh!
Em là trái đất tròn như ngọc
là Huế... Tản Đà nói Bức Tranh! (*)
 
Bài thơ Khai Bút Tết Mừng Xuân
anh viết trao em trọn tấm lòng...
người Lính muôn năm lòng rất trẻ
muôn năm lòng Lính một Non Sông...
 
                                    Trần Vấn Lệ
 
(*) Tản Đà mở đầu một bài thơ Huế:
"Đường vô xứ Huế quanh quanh,
non xanh nước biếc như tranh họa đồ..."

HƯƠNG XƯA, ĐÓN XUÂN NƠI XỨ LẠ - Thơ Nguyên Lạc

 
   

 
Hương Xưa
 
1
Đêm trôi. Mi khép. Khúc trầm rơi
Thê thiết "Hương xưa" vọng một thời
Đón Tết nơi nầy đêm trắng quá
Não nùng tuyết lệ nhớ khôn nguôi!
 
2
Mùa xuân lần nữa đã về đây
Riêng nỗi hoài hương đối sầu này
Người hỡi có mơ về chốn cũ?
Túy hương đêm vỡ khúc tình đầy!
 

MẤY TRĂM LẦN, MÙA XUÂN – Thơ Khê Kinh Kha

 
   
                  Nhà thơ Khê Kinh Kha

 
mấy trăm lần, mùa xuân
 
mùa xuân đã đến
quanh đây bao giờ
mà lòng thờ ơ
tim đau nỗi nhớ
hồn đầy dại mê
lạnh lùng tuyết rơi
ngậm ngùi sương rơi
quê hương xa vời
bao năm bao năm
ngục tù gông xiềng
tuồi trẻ đi hoang
tương lai hoang tàn
dân tôi bần cùng
 
mấy bữa đầu xuân ngồi nhìn tuyết rụng
xuân cứ như vầy chán chết đi thôi
phải chi có bạn cùng chia rượu đắng
chắc cũng đỡ buồn giữa chốn xa xôi
 
đã mấy trăm lần, nhìn hoa cúc nở
đã mấy trăm lần, lòng vắng như đêm
đã mấy trăm lần, rượu say, nằm ngủ
tỉnh dậy lại buồn, uống nữa cho quên
 
đã mấy trăm lần, hứa lòng không khóc
đã mấy trăm lần, nước mắt cứ trôi
xuân đến xuân đi, đời còn mấy bước ?
ai khóc ai cười, nhìn cánh mai rơi
 
non nước xa vời, giọt lệ trong tôi
 
                                        KheKinhKha

ĐOẢN CÚ MÙA XUÂN, NĂM LÀ THÁNG, CANH GÀ, ĐÃ QUA, PHƯƠNG NAM, LÊN NON, KHÔNG CÓ CÂU TRẢ LỜI, NGÀY NAY NGÀY MƠI, ĐẦU THU CUỐI THU, NƯỚC CHẨY – Thơ Chu Vương Miện



 
 
ĐOẢN CÚ MÙA XUÂN
 
Lá đã rơi hết trên đất
nụ đang căng da
mấy con chim non há miệng
chiêm chiếp gọi xuân về ?
ngừơì lữ hành đứng một mình hút thuốc
ngoài sân ga ?
ta nằm đắp chăn mà chưa ngủ
băn khoăn về tuổi già
bản nhạc nghe hoài mà chả cảm
lẩm nhẩm hoài mỗi bài thơ ?
ngừơì xưa ngừơì cũ giờ đâu nhỉ ?
đâu khác nhân vật Quỳnh Diều trong thố ty hoa
đọc mấy câu thơ dịch cảm thương Liêu Quốc Nhĩ
khi không lại chia nửa sơn hà ?
chợ nam chợ trung và chợ bắc
hoa mai thược dược và trúc đào
cây súng đứng rủ lá trên mặt nước
con cá mại cờ dưới lòng ao ?
ta mang tuổi thơ mang thả từ thuả đó ?
giờ tìm chả có một âm hao
cũng vẫn là hoa là xuân
mà xa cách nhau một biển nước
bên nhà giao thừa và tết đến trước ?
bên này thời lẽo đẽo tới sau ?
chờ mãi chả có thư từ gì cả
chả lẽ chúng mình kiếp này lỡ nhau ?
 

TẾT CHAY – Thơ Lê Phước Sinh

 
    


TẾT CHAY
 
Đèn nào mà không quay (?!)
chỉ vì không đủ gió.
Xe nhúc nhích rồi động,
ngao ngán gặp đèn đỏ.
 
Bến Hoa sắp úa tàn,
ngóng gặp người mua bán.
Chỉ dạo vòng chơi chơi,
vì thiếu Tệ trong túi.
 
Trời trong xanh mà nhiễm.
Miệng bịt kín khẩu trang,
Tiếng còi nghe thin thít,
tưởng lạc chốn thiên đàng.
 
Càng giáp Tết,"Thầy Chạy" (!)
tựa phong pháo ẩm xì,
Tết Chay mà thèm mặn,
Trẻ con khóc ỉ ôi...
 
Lê Phước Sinh
Sài gòn, sáng 27 tháng Chạp.

Thứ Bảy, 1 tháng 2, 2025

TẾT QUÊ XƯA - Tường Nhung

Mời đọc một bút ký mới về ngày Tết xưa của tác giả Tường Nhung, ái nữ nhà văn Thạch Lam.
 

TẾT TẾT TẾT. Tiễn Rồng Giáp Thìn đi. Rước Rắn Ất Tỵ về.
Lại một mùa Tết trở về trên xứ người. Tết đã gợi lại bao kỷ niệm quê nhà. Mà quê nhà giờ thì đã xa, xa lắm.
Hình ảnh của những ngày Tết từ một thủa thanh bình trên bảy mươi năm qua vẫn luôn hiển hiện trong trí nhớ tôi như một đoạn phim quay chậm.

Thủa ấu thơ, gia đình tôi thuộc hàng khá giả nhất nhì trong một phố huyện nhỏ. Hàng năm, vào khoảng trung tuần tháng chạp, cả trang trại đã nhộn nhịp mỗi người mỗi việc, chú quản gia bận tới tấp chạy đầu này ngó chỗ nọ, chỉ bảo nhóm khoảng 6-7 người phụ việc, đem hết lư đồng ra đánh bóng, chùi dọn bàn thờ, sắp lá dong, chặt tre làm lạt để gói bánh chưng, v.v...

Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2025

HÌNH TƯỢNG RẮN TRONG VĂN HÓA VIỆT



Những hình tượng như: chằn tinh, giao long, thuồng luồng hay rồng đã xuất hiện trong nhiều câu chuyện cổ tích. Điểm chung của những hình tượng này là đều được phác thảo với những đặc điểm của rắn.
 

Trong truyện cổ tích “Thạch Sanh”, cốt truyện thường nhắc đến hình ảnh một chằn tinh tu luyện lâu năm chuyên đi hại người. Mỗi năm, dân làng phải nộp cho chằn tinh một mạng người.
 
Thạch Sanh đánh Trăn tinh (Tranh dân gian Đông Hồ).

Tuy hình dáng của loài yêu quái này vẫn còn nhiều tranh cãi nhưng có giả thiết cho rằng hình dáng của chằn tinh là một con trăn hoặc một con rắn khổng lồ.

Hình ảnh mãng xà trên Cửu đỉnh của triều Nguyễn. Ảnh tư liệu
 
Hình dáng của thuồng luồng (còn gọi là giao long) được miêu tả là có nhiều điểm giống rắn, nhưng lại có thêm 4 chân, cơ thể có thể lớn bằng mấy người ôm và rất thích nuốt người. Tục xăm hình thuồng luồng của người Việt cổ đã có từ lâu với mong muốn an tâm hơn mỗi khi đi qua sông nước.

Giao long
 *
Nguồn:
https://www.vietnamplus.vn/hinh-tuong-ran-trong-van-hoa-viet-tu-noi-khiep-so-den-hinh-xam-tren-da-post1008913.vnp?utm

NĂM TỴ NHỚ BÀI THƠ "RẮN" TƯƠNG TRUYỀN CỦA LÊ QUÝ ĐÔN – Gs Mạc Văn Trang giới thiệu



Người ta kể rằng, một hôm, Tiến sĩ Vũ Công Trấn đến thăm Tiến sĩ Lê Phú Thứ là người bạn cùng đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn 1724 (sau đổi là Lê Trọng Thứ). Nghe con bạn là Lê Quý Đôn còn trẻ mà đã hay chữ, nên ông Trấn lấy đầu đề "Rắn đầu biếng học" để thử tài. Ít phút sau, Lê Quý Đôn đã làm xong bài thơ dưới đây:
 
RẮN ĐẦU BIẾNG HỌC
 
Chẳng phải "liu điu" vẫn giống nhà!
"Rắn đầu" biếng học quyết không tha
Thẹn đèn "hổ lửa" đau lòng mẹ,
Nay thét "mai gầm" rát cổ cha.
"Ráo" mép chỉ quen tuồng lếu láo,
"Lằn" lưng chẳng khỏi vết roi da.
Từ nay "Trâu" Lỗ [1] xin siêng học,
Kẻo "hổ mang" danh tiếng thế gia!
 
Chú thích:

▲ "Trâu" ở đây chỉ loài rắn hổ trâu, ngoài ra còn dùng để ám chỉ quê của Mạnh Tử. Còn "Lỗ" ở đây ám chỉ quê của Khổng Tử.